Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 9, Chúa Nhật 26.2.2006


MỤC LỤC

Linh Mục Trong SỨ MỆNH CỦA GIÁO HỘI                                                                                   Vatican 2

LINH MỤC LÀ NGƯỜI KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN                                                                     GSVN

LỜI  SÁNG TẠO                                                                                                     + Gm. Giuse Vũ văn Thiên

Chúa là ai ?                                                                                                                Lm. Nguyễn Ngọc Long

PHÉP KHAI MỞ MẮT THẦN                                                                     Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường

CĂN TÍNH LINH MỤC: NGƯỜI CỦA LỜI CHÚA VÀ NHIỆM TÍCH        Lm. Giuse Pham Ngọc Khuê

ĐỐM LỬA VÀ ĐÁM CHÁY CỦA TÌNH YÊU !                                                                                                          Lm. Lê Quang Uy

Cười- Mười Thang Thuốc Bổ                                                                                   Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức

Từ TSUNAMI đến KATRINA và ...                                                                                                Joseph Vũ


Linh Mục Trong SỨ MỆNH CỦA GIÁO HỘI

LTS :

Kính thưa Quí vị,

Bốn mươi năm sau Thánh Công Đồng Vatican II, Dân Chúa tại Việt Nam vẫn chỉ biết rất ít về những nội dung canh tân mà Giáo hội toàn cầu đã công bố rộng rãi. Trước sự thúc bách ấy và trong khả năng hạn hẹp của minh, GSVN sẽ cố gắng giới thiệu những bản văn quan trọng. Trước hết là sắc  lệnh PRESBYTERORUM ORDINIS, về chức vụ và đời sống các linh muc. (Bản dịch của GHHV Pio X, 1975).

Sắc Lệnh về Chức vụ & Đời sống các Linh mục

Chương I

Linh Mục Trong SỨ MỆNH CỦA GIÁO HỘI

Chúa Giêsu “Đấng đã được Chúa  Cha thánh hóa và sai xuống trần gian” (Gio 10, 36 ) và đã được Chúa Thánh Thấn xức dấu. Người đã làm cho tật cả Nhiệm Thể của  Người được thông phần vào sự xức dầu đó: vì trong Người, mọi tín hữu hóa thành một chức tư tê thánh thiện và vương giả đề nhờ Chúa Kitô họ hiến dâng lên Thiên Chúa những lễ tế thiêng liêng và tuyên xưng quyên năng của Đấng đã  kêu gọi họ ra khỏi tối tăm đưa vào ánh sáng diệu kỳ của Ngài. Do đó, không một chi thể nào mà không thông phần vào sứ mệnh của toàn Thân, nhưng mỗi một chi thể đều phải tôn vinh Chúa Giêsu trong tâm hồn mình và phải dùng tinh thần sứ ngôn mà làm chứng vè Người.

Tuy nhiên, để hợp thành một thân thể duy nhất, trong đó "mỗi chi thể có nhiệm vụ riêng" (Rm. 12, 4 ), chính Chúa đã cắt đặt giữa các tín hữu một số thừa tác viên, nhờ Chức Thánh họ được trao quyền tế lễ và tha tội trong cộng đoàn tín hữu, và nhân danh Chúa Kitô họ chính thức thi hành chức vụ Linh Mục cho loài người. Bởi vậy, Chúa Kitô đã sai các Tông Đồ như chính Người được Chúa Cha sai, và rồi qua các Tông Đồ, Người đã làm cho các đấng kế vị là các Giám Mục cũng được tham dự việc thánh hiên và sứ mệnh của Người, Người lại trao ban cho các Linh Mục chức vụ thừa hành nầy ở một cấp độ tùy thuộc, để một khi gia nhập hàng Linh Mục họ là những cộng tác viên của hàng Gíám Mục đề chu toàn một cách tốt đẹp sứ mệnh tông đồ mà Chúa Kitô trao phó.

Chức vụ Linh Mục liên kêt với chức Giám Mục, nên cũng được tham dự vào quyền bính mà chính Chúa Kitô đã dùng đề kiến tạo, thánh hóa và cai quản Thân Thể Người. Vì vậy, chức Linh Mục của các ngài dù giả thiềt đã có những Bí Tích khai sinh đời sống Kitô giáo, nhưng lại được một Bí Tích riêng in dấu đặc biệt khi các ngài được Chúa Thánh Thần xức dầu. Như thế các ngài nên giống Chúa Kitô Linh Mục, đến nỗi có quyền thay mặt Chúa Kitô là Đầu mà hành đồng.

Vì được tham dự chức vụ của các Tông Đồ theo phận vụ mình, nên các Linh Mục đựợc Thiên Chúa ban ơn sủng đề làm thừa tác viên của Chúa Giêsu Kitô giữa muôn dân, và thi hành chức vụ thánh rao giảng Phúc âm để muôn dân trở nên hiến lễ đẹp lòng Chúa và được Thánh Thần Thánh hóa.  Thật vậy, việc loan truyền Phúc âm của các Tông Đồ đã triệu tập và đoàn tụ Dân Chúa, để một khi đã được Chúa Thánh Thần thánh hóa tất cả những ai thuộc vê dân này sẽ tự hiến làm "lễ vật sồng động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa" ( Rm 12, 1 ). Nhưng nhờ thừa tác vụ của các Linh Mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tãt vì kêt hơp với hy tế của Chúa Kitộ, Đấng Trung Gian duy nhất hy tế này nhờ tay các Linh Mục, Nhân danh Giáo Hội, hiến dâng một cách bí tích và không đổ máu trong phép Thánh Thể, cho tới khi Chúa lại đến. Chính việc tế lễ nầy là điểm nhằm tới và hoàn tầt cúa tác vụ Linh Mục. Thực vậy, việc thi hành tác vụ của các Ngài bắt đầu bằng việc rao giảng Phúc âm, múc lấy sức mạnh và năng lực từ Hy Tế Chúa Kitô, và rồi kết thúc bằng việc "hiến dâng lên Thiên Chúa toàn thể thành đô đươc cứu rỗi, đó là cộng đoàn và xã hội các Thánh, như một lễ vật của toàn dân, nhờ vị Linh Mục Thượng Phẩm, cũng là Đấng tự hiến trong cuộc Tử Nạn vì chúng ta để chúng ta trở nên Thân Thể của Người là Đầu vô cùng cao cả".

Bởi vậy, trong chức vụ và đời sông của mình, các Linh Mục phải nhằn mục đích tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa Chúa Cha trong Chúa Kịtô. Vinh danh này hệ tại việc mọi người đón nhận một cách ý thức, tự do và biết ơn công trình của Thiện Chúa đã được hoàn tất trong Chúa Kitô lại biểu lộ công trình đó trong suốt cuộc đời mình. Vì thế, khi cầu nguyện và tôn thờ cũng như khi giảng thuyết, khi dâng Hy Tế Thánh Thể và làm các Bí Tích cũng như khi thi hành những thừa tác vụ khác giúp người ta, các Linh Mục đều qui hướng về việc làm vinh danh Thiên Chúa hơn,  đồng thời giúp con người tiến tới trong đời sống thiêng liêng. Tất cả những điều đó bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô và sẽ được hoàn tất khi chính Người lại đến trong vinh quang, vì khi đó Người sẽ trao lại Vương Quyên cho Thiên Chúa là Cha.

Được tuyển chọn từ loài người và thiết lập vì loài người để lo việc Thiên Chúa hầu dâng những hiến vật và hy tế đền tội, các Linh  Mục sông với người khác như anh em. Thực vậy, chính Chúa Giêsu, Con. Thiên Chúa, là Người được Chúa Cha sai đến với loài người, đã ở giữa chúng ta và muốn nên giống chúng ta là anh em Người trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Các Thánh Tông Đồ đã bắt chước Người, và Thánh Phaolô, vị Tiên Sĩ dân ngoại "Đấng được lựa  chọn để rao giảng Phúc âm của Thiên Chúa" (Rm 1, 1 ), chứng thực rằng Người đã trở nên mọi sự cho mọi người để cứu chuộc mọi người. Các Linh Mục Tân Uớc, do ơn gọi và chức thánh, một cách nào đó được tuyển chọn ngay giữa Dân Chúa, nhưng không phải để tách biệt khỏi họ hoặc bất cứ một người nào, mà để hoàn toàn tận hiến làm công việc Chúa đã chọn họ làm. Các ngài không thể là thừa tác viên của Chúa Kitô nếu không là chứng nhân và là người ban phát một đời sống khác đời sống thế tục; tuy nhiên các ngài không  thể phục vụ nhân loại nếu lại sông xa cuộc sống và những hoàn cảnh của họ. Chính thừa tác vụ của các Ngài, vì mang một danh nghĩa đặc biệt, nên đòi buộc các ngàị không đưọc theo thói thế gian; nhưng đồng thời lại đòi hỏi các ngài sống trong thế gian giữa loài người. Hơn nữa, như các mục tử nhân lành, các ngài phải nhận biết các chiên của mình và còn tìm cách dẫn về những chiên không thuộc đoàn này, để chúng cũng nghe tiếng Chúa Kitô, hầu nên một đoàn chiên và một Chủ Chăn. Để đựợc thế, cần phải có nhiều đức tính đáng cho xã hội loài người kính chuộng như từ tâm, thành thật, dũng cám, kiên nhẫn, say mê công chính, lịch thiệp và những đức tính khác mà Thânh Phaolô Tông Đồ khuyên nhủ khi Ngài nói: "Tât cả những gì là chân thật, là trong sạch, là công bằng, là thánh thiện, là khả ái, là danh thơm tiếng tốt, hoặc nhân đức, hoặc hạnh kiểm nào đáng khen, thì xin anh em hãy tưởng nghĩ đến" (Ph 4, 8 )

Còn tiếp
 

VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC BƯỚC VÀO THẾ KỶ 21

LINH MỤC LÀ NGƯỜI KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN.

      

“HỌ KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN, CŨNG NHƯ CON ĐÂY KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN”.

(Gio 17,16).

THẾ GIAN.

Xu hướng toàn cầu hóa có thể gây ra :    

       * Tình trạng thất nghiệp, bởi vì những công ty hay xí nghiệp nhỏ không đủ sức cạnh tranh sẽ bị đóng cửa.

       * Qui luật của thị trường là mạnh được yếu thua. Nhiều quốc gia lâm vào cảnh khốn cùng do trình độ thấp, ít vốn, không thể cạnh tranh nổi. Khơi sâu hố ngăn cách giữa giàu và nghèo.

       * Ngân sách phục vụ cho xã hội bị cắt giảm.

       * Yếu tố kinh tế có địa vị số một, chi phối mọi quyết định.

       * Giá trị con người được đo bằng những thứ họ mua sắm. Tinh thần lợi nhuận bao trùm trên mọi lãnh vực.

Xu hướng tục hóa có thể gây ra :     

       * Dửng dưng với tôn giáo.

       * Xa lìa Thiên Chúa, xa lìa Đức Kitô và Giáo Hội.

Xu hướng cá nhân và hưởng thụ có thể gây ra :

       * Chối từ tha nhân.

       * Ngại khó khăn, không chấp nhận khổ đau và thập giá.

      

LINH MỤC VÀ BỔN PHẬN NÊN THÁNH.    

       * Cũng như các Kitô hữu, linh mục phải là người có Đức Kitô trong tâm hồn trước khi đem Đức Kitô đến cho người khác, như lời thánh Grêgôriô đã nói :

       - Trước khi thanh luyện kẻ khác, các linh mục phải thanh luyện lấy mình. Muốn dạy dỗ kẻ khác, các ngài phải được dạy dỗ. Các ngài phải trở nên ánh sáng để soi sáng và trở nên gần gũi với Chúa để mang kẻ khác tới gần Chúa. Các ngài phải được thánh hóa để thánh háo kẻ khác.

       * Nên thánh là bổn phận của mọi người tín hữu, như Chúa Giêsu đã nói :

       - Các con hãy nên trọn lành, như Cha các con là Đấng trọn lành. (Mt 5,48).

       Hay như Công đồng Vaticanô II đã xác quyết :

       - Lời mời gọi sống viên mãn đời sống Kitô hữu và thực thi đức ái trọn hảo được ngỏ đến mọi người tin vào Đức Kitô, bất kể bậc sống và lối sống của họ. (LG số 40).

       * Lời mời gọi này đặc biệt được áp dụng cho các Linh mục, vì Linh mục được mời gọi với tư cách thụ nhân của Bí tích Rửa tội đã đành, mà còn với tư cách Linh mục, bắt nguồn từ Bí tích Truyền   chức :

       - Thần Khí Chúa ngự trên tôi,

         Vì Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi. (Lc 4,18).

       * Ơn gọi Linh mục cốt yếu là một lời mời gọi nên thánh với mô hình bắt nguồn từ Bí tích Truyền chức thánh :

       - Sống thân mật với Thiên Chúa.

       - Sống khó nghèo, khiết tịnh và khiêm nhường noi gường Đức Kitô.

       - Sống yêu thương không hạn chế đối với các linh hồn.

         (Pastores dabo vobis, số 33).

      

CON ĐƯỜNG TU ĐỨC.

       Cha Alex Rebello, trong đại hội Seoul về đào tạo Linh mục, đã giới thiệu một con đường tu đức dành cho Linh mục. Con đường ấy được minh họa trong một từ duy nhất, đó là CHRIST. (Phần này xin lấy lại và tóm lược trong “Linh mục thiên niên kỷ mới, trang 127-149).

1- C tượng trưng cho Thập giá (Cross).

* Đức Kitô :     

       - Thập giá gắn liền với thân phận của Ngài bởi vì nuc đích của Ngài nơi trần gian là gì nếu không phải là chấp nhận thập giá để cứu chuộc chúng ta :

       . Con người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. (Mt 10,28).

       - Ngay cả sau khi sống lại vinh quang, thì những thương tích từ cuộc khổ  nạn vẫn không bị xóa nhòa.

       . Nếu Đức Kitô chúng ta mường tượng không phải là “Đức Kitô khổ nạn” thì đó là chúng ta đang mường tượnng một ai đó khác, chứ không phải là Đức Kitô thực.

Linh mục.    

       * Chức Linh mục phải cắm rễ trong thập giá, như lời Chúa đã   phán :

       - Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. (Mt 16,24).

       * Thập giá là :

       - Chấp nhận hy sinh và từ bỏ ý riêng.

       - Vâng phục thánh ý Chúa và vâng phục cho đến chết.

       * Linh mục thường bị cám dỗ tìm kiếm : Một Đức Kitô không thập giá, một thứ Kitô giáo dễ dãi, một tin mừng không nước mắt. Thế nhưng, nếu chúng ta cố tìm kiếm một Đức Kitô không có thập giá, thì chúng ta sẽ chỉ gặp thập giá mà không có Đức Kitô.

       * Càng bén rễ sâu trong thập giá, thì linh mục càng đâm bông kết trái, như “hạt lúa mì có thối đi thì mới trổ sinh nhiều bông hạt”. (Gio 12,21).

      

2- C tượng trưng cho Nhân ái (Humanity).

Đức Kitô :      

       * Luôn tỏ lòng nhân ái đối với các trẻ nhỏ, bạn hữu, nhất là đối với những người đau ốm, bất hạnh, khổ đau và tội lỗi.

       * Ngài cùng chịu đau khổ với con người : cũng mệt, cũng đói, cũng khát…

       * Ngài luôn cảm nhận được :

       - Sự đói mệt của đám đông.

       - Nỗi buồn đau của người mẹ đã mất đi người con trai duy nhất.

       - Lòng sám hối của người đàn bà tội lỗi.

       * Như vậy, lòng nhân ái của Ngài đã đi vào mọi người và từng người.

Linh mục :

       * Không thể vô cảm và lãnh đạm đối với những khổ đau của những người mình có bổn phận phục vụ.

       * Phải trở nên như người Samaritanô nhân từ.

       * Yêu thương và quan tâm chăm sóc mọi người.

      

3- R tượng trưng cho Hòa giải (Reconciliation).

Đức Kitô :  

       * Hòa giải chúng ta với nhau và với Chúa Cha nhờ cái chết trên thập giá.

       * Là  nhịp cầu Pontifex, Ngài không phải chỉ nối kết những cá nhân đang chia rẽ nhau, mà còn hiệp nhất những gì đang phân rẽ bên trong con người, đó chính là tội lỗi và sự dữ.

       * Bản thân Ngài đã từng giao du với những kẻ thu thuế và tội lỗi. Và ngay cả lúc sắp trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, Ngài vẫn còn tha thứ cho anh trộm lành.

Linh mục :   

       * Là sứ giả của sự hòa giải, nối lại nhịp cầu kiến tạo hòa bình,

       * Thực thi vai trò thừa tác viên của Bí tích Hòa giải đã đành, mà Linh mục còn phải là người ân cần và đều đặn lãnh nhận bí tích này, để trở thành chứng nhân cho lòng thương xót của Chúa.

      

4- I tượng trưng cho Nội tâm (Interiority).

Đức Kitô :   

       * Luôn cầu nguyện, kết hiệp mật theít với Chúa Cha.

       * Ngài cũng đã dạy cho các môn đệ cầu nguyện.

Linh mục :      

       * Giữa những công việc bận rộn, phải biết dành cho Chúa thời gian để cầu nguyện và phải cầu nguyện một cách có chất lượng, nhờ đó được kết hiệp với Đức Kitô một cách mật thiết như cành nho với cây nho.

      

5- S tượng trưng cho tinh thần Phục vụ (Servanthood).

Đức Kitô : 

       * Đã đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người (Mt 10,28).

       * Ngài đã làm gương cho các môn đệ bằng cách quì xuống rửa chân cho các ông.

Linh mục :

       * Là Thừa tác viên, Linh mục có bổn phận phải phục vụ.

       * Là mục tử, Linh mục có bổn phận phải hy sinh và hiến mạng sống cho đàn chiên.

       * Tự bản chất, Linh mục cũng chỉ là một đày tớ vô dụng mà thôi.

      

6- T tượng trưng cho Thày dạy (Teacher).

Đức Kitô :

         * Ngài đến trong trần gian là để rao giảng Tin mừng Cứu độ.

Linh mục :

       * Là Thày dạy lời Chúa. Việc giảng giải của Linh mục phải :

       - Dựa trên sự cầu nguyện cá nhân.

       - Dựa trên chứng từ của đời sống bản thân, như lời Đức thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói : Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn nghe những thày dạy. Và nếu họ lắng nghe những thày dạy, là bởi vì những thày dạy này là các chứng nhân.

      

       KẾT LUẬN.

       Với sự trợ giúp của ơn Chúa, với sự cố gắng của bản thân, Linh mục sẽ trở nên là như :

       - Muối ướp cho thức ăn.

       - Men làm dậy bột.

       - Ánh sáng chiếu trong đêm tối.

GSVN
 

VỀ MỤC LỤC

LỜI  SÁNG TẠO  (Suy niệm trong năm Sống Lời Chúa)

 

Trong bất kỳ nền văn hóa nào, ta đều thấy những huyền thoại về sự tích trời đất. Những huyền thoại này cho thấy con người không ngừng thao thức với những vấn nạn về nguồn gốc của mình. Và, tuỳ theo mỗi nơi mỗi thời, người ta tìm cách lý giải để tìm ra ý nghĩa cuộc đời, điều mà chúng ta gọi là vũ trụ quan và nhân sinh quan của một nền văn hóa.

Cũng trong chiều hướng ấy, những trang đầu của Kinh Thánh nói về sự tích trời đất, sự tích mọi loài và nhất là loài người. Thoáng qua, độc giả có thể nghĩ sự tích trong Kinh Thánh cũng giống như những huyền thoại khác về khởi thuỷ trời đất. Quả thật, tác giả sách Sáng Thế đã mượn những nét văn chương và quan niệm của người đương thời để nói về công trình sáng tạo. Tuy vậy, hãy đọc kỹ những gì được trình bày, chúng ta sẽ thấy có những điểm đặc biệt: Thiên Chúa sáng tạo mọi sự từ hư vô, và Ngài sáng tạo bằng LỜI của Ngài.

1- Thiên Chúa sáng tạo từ hư vô (creatio ex nihilo )

Trong những trình thuật về sáng tạo của các nền văn hoá miền Trung cận Đông hay ở Việt nam chúng ta, các vị thần đã lấy vật liệu có trước như đất, đá, gỗ mà tạo nên vạn vật. Hơn nữa, chính các ngài trực tiếp dày công lao nhọc để tạo thành thế giới. Công trình sáng tạo còn là một quá trình tranh đấu gian khổ giữa thế giới các vị thần linh để tồn tại và thống trị.

Động từ được dùng trong trình thuật là động từ sáng tạo (nguyên gốc Do thái là ba-ra). Ý nghĩa của động từ này là hành động làm nên một vật mà không cần chất liệu có sẵn. Thiên Chúa sáng tạo mọi sự từ hư vô, từ không không. Nghĩa là Ngài không cần chất liệu gì. Điều này hoàn toàn khác với các truyền thuyết sáng tạo đương thời khác.

Thế giới này được sáng tạo không phải từ chất liệu đã có sẵn. Cũng không phải từ chất liệu là một phần của chính bản thể Thiên Chúa như một số tác giả đã chủ trương. Ngài đã làm cho chúng nên hiện hữu hoàn toàn do sự tự do tuyệt đối của Ngài. Ngài tạo dựng vũ trụ càn khôn không phải vì nhu cầu, nhưng vì tình yêu thương. Qua công trình sáng tạo Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Ngài. Như thế, công trình sáng tạo là sự “tự-tỏ-bày-và-hiệp-thông” của Thiên Chúa (auto-communication). Dante đã viết: “chính từ tình yêu của Thiên Chúa mà xuất phát vũ trụ tuyệt vời này”.

2- Thiên Chúa sáng tạo bằng LỜI  của Ngài

Trình thuật sáng tạo trong chương 1 của sách Sáng Thế đã diễn tả Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Ngài ra lệnh cho mọi vật hiện hữu. Nói cách khác, Ngài dùng Lời của Ngài mà sáng tạo mọi vật mọi loài: “Thiên Chúa phán: Phải  có ánh sáng. Liền có ánh sáng” (St 1,3). Trong tiến trình sáu ngày của công trình tạo dựng, Thiên Chúa dùng Lời của Ngài để ra lệnh. Tác giả ghi lại 10 lần “Thiên Chúa phán” và điều này làm cho độc giả Do thái dễ dàng liên tưởng đến Thập Điều trong Luật Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa với Dân Ngài trên núi Si-nai, sau khi Dân vừa được dẫn đưa khỏi Ai-cập. Chính nơi đây, Israel có thời gian suy tư về cội nguồn của mình, về thân phận của cả một dân bị đày đọa 430 năm (Xh 12,40). Với họ, luật Giao ước được ban bố trên núi Si-nai là sự cam kết đối với Đấng đã giải phóng và dẫn đưa họ tới bến bờ của tự do. Nếu 10 Lời của Thiên Chúa đã hoàn thành công trình sáng tạo thì nay 10 giới răn của Ngài nhắc nhở và cam kết với con người về những đòi buộc luân lý để dẫn đưa công trình sáng tạo ấy đến hoàn thiện.

Trời đất, con người và vạn vật được tạo thành qua những lệnh truyền của Đấng Tối cao. Tác nhân thực hành những lệnh truyền ấy là LỜI của Thiên Chúa. Qua dòng thời gian của Mạc Khải, chúng ta nhận ra Lời này là chính Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa nhập thể để cứu độ trần gian. Hãy xem tác giả Tin mừng thứ bốn viết thế nào: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời… nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1). “Lúc khởi đầu” của công trình Sáng tạo được ghi trong sách Sáng thế được nhắc lại trong lời tựa của Tin Mừng Thánh Gioan như lời nhấn mạnh đến nguồn gốc và vai trò của Lời: Ngôi Lời là Thiên Chúa và Ngài là tác nhân thực hiện công trình sáng tạo.  Tác giả Jurgen Moltmann đã viết: “Thiên Chúa hoàn thành công trình của mình bằng lời mà Ngài đã thể hiện. Lời sáng tạo là trung gian kế cận giữa Đấng tạo hóa với công trình sáng tạo… Việc Thiên Chúa sáng tạo bằng Lời cho thấy Ngài hoàn toàn tự do đối với công trình sáng tạo” (J Motlmann: Dieu dans la Création, trang 108). Thiên Chúa đã dùng Lời của Ngài để “gọi” vạn vật từ hư vô đến hiện hữu. Không những chỉ “gọi” chúng đến hiện hữu. Thiên Chúa dùng Lời của Ngài để chọn lựa, phân tách ánh sáng khỏi tối tăm,  đất liền khỏi biển cả. Ngài đặt tên cho chúng, chúc lành và khen là tốt đẹp. Thiên Chúa hài lòng về công trình sáng tạo của Ngài. Ngài hài lòng về Lời của Ngài. Lời sau này sẽ hóa thân làm Người, là Con yêu dấu, Đấng luôn làm đẹp lòng Cha (x Mt 3,17; Mc1,11). Đức Giêsu đến trần gian để thi hành Thánh ý Chúa Cha. Việc thi hành ấy hoàn hảo đến nỗi chính Thánh ý Chúa Cha là lương thực và lẽ sống của Người (Ga 4,34).

3- LỜI đã trở nên người phàm

Thiên Chúa không tạo dựng vũ trụ vì nhu cầu của Ngài. Bởi lẽ Ngài là Đấng Toàn Năng. Ngài tạo dựng vì yêu thương. Ngài muốn san sẻ tình yêu từ cung lòng Ba Ngôi cho mọi tạo vật. Mục đích của công trình sáng tạo không chỉ để con người thờ phượng Chúa, nhưng Thiên Chúa muốn cho vinh quang và tình yêu của Ngài tràn ngập nơi gương mặt và tâm hồn con người cũng như nơi mọi tạo vật. Vì vậy, trình thuật về việc tạo dựng con người như một nghi thức long trọng. Thiên Chúa bàn tính,  định ra một kế hoạch trước khi tạo dựng con người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1,26). Như thế, “linh hồn” chưa hẳn đã là đặc tính nổi bật của con người, vì chính nơi loài động vật cũng có “sinh hồn”. Đặc tính nổi bật của con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Như  J Moltmann viết: “con người là hình ảnh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Thiên Chúa muốn ghi lại nơi cuộc sáng tạo không phải chỉ là công trình của mình, mà Ngài muốn thấy lại chính mình ở nơi đó. Sự sáng tạo con người giống hình ảnh Thiên Chúa cho thấy Ngài tìm nơi con người sự phản chiếu của chính mình, như trong một chiếc gương, qua đó Ngài thấy chính gương mặt của mình, thấy con người giống như mình” (Sđd, p  109).

Và, một gương mặt nhân loại  đã phản chiếu cách hoàn hảo hình ảnh của Thiên Chúa như Ngài đã muốn từ ban đầu. Gương mặt ấy là chính Đức Giêsu, Ngài là phản ánh của Đấng Vô hình “Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời  quyền năng mà duy trì vạn vật…” (Dt 1,3). Như thế, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa Cha hiện diện nơi trần gian.  Đức Giêsu chính là mẫu mực lý tưởng cho con người mới, con người  do Chính Thiên Chúa tạo dựng và thực sự phản ánh hình ảnh của Ngài. Ngài chính là điểm quy tóm mọi sự, là đích điểm mà con người đang dần dần phấn đấu để đạt tới. Đức Giêsu là Adam mới – hay nói như một số tác giả hiện nay – Ngài là Adam cuối cùng, tức là không có Adam thứ ba hay Adam nào nữa để nhờ đó ơn cứu chuộc được thông ban cho trần gian.

Nếu từ thuở bình minh của công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã dùng Lời của Ngài để phân rẽ ánh sáng khỏi bóng tối, phân rẽ nước phía dưới vòm trời và nước phía trên vòm trời, thì hôm nay, chính Đức Giêsu Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể, đang thúc giục mời gọi chúng ta hãy cộng tác với Ngài để ánh sáng của ân sủng, của tình yêu ngời sáng trong cuộc đời, đẩy lui bóng tối của tội lỗi, của ghen tương và ích kỷ.

4- Sáng tạo: một công trình đang tiếp diễn:

Thiên Chúa đã dùng Lời của Ngài để sáng tạo trần gian. Lời từ thuở bình minh ấy vẫn đang âm vang trong cuộc đời này. Mỗi ngày, mỗi phút mỗi giây, Thiên Chúa vẫn đang phán: “Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng…” Bởi lẽ hành động sáng tạo của Thiên Chúa là hành động liên lỉ. Chúa Thánh Thần đang làm cho Lời của Thiên Chúa âm vang trong mọi tạo vật để mọi vật được tiếp tục hoàn thiện mỗi ngày như tầm mức Chúa muốn. Nếu ta so sánh công trình sáng tạo như một cỗ máy, thì Thiên Chúa Cha đã tác tạo nên cỗ máy ấy; Chúa Con là Ngôi Lời làm cho cỗ máy ấy hoạt động. Chúa Thánh Thần chính là năng lượng, là nhiên liệu để cho cỗ máy luôn hoạt động. Hình ảnh được nêu lên trong sách Sáng thế: “Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) cho chúng ta hình ảnh của một gà mẹ ấp ủ quả trứng chờ đợi ngày nở thành một chú gà con. Vâng, Thần khí của Thiên Chúa vẫn đang ấp ủ vũ trụ này, chờ đợi một ngày quả trứng khổng lồ vũ trụ nở ra, lúc đó toàn thể mọi tạo vật, trong đó có chúng ta được chiêm ngưỡng Thiên Chúa cách nhãn tiền, không còn như trong gương, nhưng mặt giáp mặt. Chúa Thánh Thần luôn hoạt động để cỗ máy tạo vật được sống động, bởi vì “Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gửi hơi thở tới, chúng được tạo thành...” (Tv 103,29). Một ngày nào đó nếu Chúa Thánh Thần không hoạt động thì mặt trời mặt trăng mất sáng, cỏ cây vạn vật không còn sự sống và con người cũng trở nên bất động. Chính trong Chúa mà chúng ta hiện hữu và sống động.

Công trình sáng tạo là công trình của yêu thương. Thiên Chúa sáng tạo giống như nước thuỷ triều hạ thấp xuống để nhường đất khô cho con người cư ngụ, để muôn vật có đất sinh sống. Với công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã thu bớt mình lại để nhường chỗ cho con người. Ngài cho con người thay mặt Ngài làm chủ mọi loài thọ tạo và qua những cố gắng của con người, những tạo vật được giải thoát khỏi sự dữ, lúc đó vinh quang Thiên Chúa cũng được tỏ hiện nơi mọi vật mọi loài. Mùa Xuân Địa Đàng sẽ được phục hồi và con người lại tiếp tục đàm đạo với Chúa trong làn gió hiu hiu của buổi chiều hôm. Đó chính là mối thân tình giữa chúng ta là tạo vật với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng. Lời đàm đạo giữa buổi chiều hôm thơ mộng ấy được tái lập và thể hiện qua chính Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Ngài là Thày và Anh Cả của chúng ta.

+ Gm. Giuse Vũ văn Thiên, Hải phòng

VỀ MỤC LỤC
Chúa là ai ?

 

Ðể trả lời cho thắc mắc này, Ta, Thiên Chúa của con, mời con cùng đi lướt qua một vài chặng đường đời sống:

Trong đóm tia ánh sáng niềm hy vọng, và cả trong bóng rợp lo âu sợ hãi che khuất đời con.

Trong lúc con gặp thất vọng, và khi con nhận được qùa tặng lòng tin tưởng.

Ta hằng giữ lời hứa: luôn ở bên con !

Trong bóng tối của qúa khứ, và cả trong tương lai mù mịt.

Trong khi con sống hạnh phúc, vì có đời sống khỏe mạnh; và cả trong hoàn cảnh khó khăn phức tạp hầu như bị bỏ rơi, vì bị bệnh tật.

Ta hằng giữ lời hứa: cùng đồng hành với con!

Trong lúc con cảm thấy đời lâng lâng nhẹ nhàng ; và cả những khi con phải suy nghĩ tìm lối thoát, vì cảm thấy đời sống nặng nề, buồn tẻ…

Trong lúc con có cuộc sống sung túc đầy đủ ; và cả trong lúc con phải trải qua giai đoạn sống nghèo khổ túng cực.

Ta hằng giữ lời hứa: luôn nâng đỡ con!

Trong những khi con vui mừng chu toàn việc bổn phận ; và cả khi con cảm thấy trống rỗng hoang vắng, dù vất vả bận rộn.

Trong khi con phấn khởi thi thố phát triển khả năng của mình; và cả khi con phải dừng lại nơi giới hạn khả năng của mình.

Ta hằng hằng giữ lời hứa: luôn lắng nghe con!

Trong những khi con hấp dẫn được người khác lúc nói chuyện ; và cả khi con cảm thấy buồn tẻ nhạt nhẽo lúc cầu nguyện.

Trong lúc con có niềm vui, vì gặt hái được thành công ; và cả khi con phải chịu đựng, vì gặp thất bại.

Ta hằng giữ lời hứa: là người cùng thông cảm với con !

Trong những khi con cảm thấy hạnh phúc, vì tìm được điều mình mong muốn ; và cả khi con phải bồn chồn lo âu chờ đợi

Trong những lúc con tưởng là phép lạ, vì được yêu thương tán thưởng ; và cả khi con phải chấp nhận, vì bị hiểu lầm hay bị phản đối chối từ.

Ta hằng giữ lời hứa: không để con một mình !

Trong những khi đời sống con bị giới hạn thu hẹp lại và cả khi con được tự do suy tưởng mơ mộng, rồi cả khi sức sống trào dâng lên từ trong trái tim tâm hồn.

Ta hằng giữ lời hứa: cùng chia sẻ với con !

Từ trong bụi gai cháy rực khi xưa (Xh 3,14) Cha đã nói cho Maisen tên của Cha.

Và ngày nay Cha cũng nói với con: Cha là người luôn ở bên con, là người hằng cùng đồng hành với trong đời sống!

Phỏng theo suy tư của một tác gỉa vô danh.

Lm. Nguyễn Ngọc Long

VỀ MỤC LỤC
PHÉP KHAI MỞ MẮT THẦN
 

Mắt thần là con mắt thứ ba. Mắt này mà được khai mở hoặc giác ngộ thì thần thông vũ trụ, thấu suốt được lòng người cả tim gan phèp phổi cõi sâu cõi nông theo ngôn ngữ tâm lý bây giờ. Nhiều người thì chỉ coi đó là chuyện vui như một ao ước chẳng bao giờ có được. Nhưng nhiều truyền thống vẫn tin rằng mắt thần có thực. Người An Độ thường vẽ con mắt thứ ba bằng một chấm đỏ trên trán ngay giữa hai mắt. Mấy người khoa học bèn tìm cách thí nghiệm xem có phải do hai hạch Pituary ở trán và Pineal trong óc không. Thôi thì cứ tha hồ mà đoán mò.

Nhưng có điều chắc chắn là lịch sử đã ghi nhận có nhiều người đã thấy được cái mà nhiều người khác không thấy bằng con mắt thịt.

 

BÙA PHÉP TRONG TRẬT TỰ MỚI

Bước sang ngàn năm thứ ba, người ta có dịp nhìn lại văn minh con người qua bao thời đại. Văn minh từ nông nghiệp chuyển sang văn minh kỹ thuật của mấy thế kỷ qua đã đội mũ triều thiên ưu thế cho các nước Au Mỹ. Rồi sau trận chiến vùng Vịnh thắng Iraq, hay nói khác hơn, là xóa được sức vùng dậy cuối cùng của văn minh Ả Rập đối kháng với văn minh kỹ thuật Au Mỹ, tổng thống Bush của nước Mỹ đã ngang nhiên nói tới một trật tự mới. Và người ta bàn về trật tự vòng đai Thái Bình Dương, mà Mỹ đương nhiên phải là “trung quốc”, là trọng tâm và tiêu chuẩn giá trị để mọi “hành tinh” xoay quanh. Trật tự cũ của vòng đai nông nhiệp Địa Trung Hải như Roma, Hy Lạp bên Au, và “Trung” Quốc bên Đông cũng đã là “rốn vũ trụ”, nay chỉ còn tìm thấy vết tích trong viện bảo tàng hoặc trong Tam Quốc diễn nghĩa do Tử Vi Lang dịch thuật mà thôi.

Từ vòng đai Địa Trung Hải văn minh nông nghiệp đã phải nhường bước cho văn minh cơ khí của vòng đai Đại Tây Dương với Anh, Pháp, Ý, Bỉ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan.... Nền văn minh này một thời cũng tự phong cho mình cái quyền chia nhau đi bắt các nước Á Phi, Nam Mỹ quì dưới chân mà phục lạy ánh sáng phương Tây qua chính sách thuộc địa, thì nay cũng đã bế mạc chương trình để theo đi tàu ngầm với ông De Gaulle... Đám táng nền văn minh này được tổ chức trong một cảnh hữu nghị “môi hở răng lạnh” của cái bàn chia chác trên một chiếc tàu hồi nào giữa Rossevelt (rồi Truman), Stalin, và Churchill. Sau đó là chiến tranh lạnh, chiến tranh được xếp đặt trước, hai phe phải khéo đóng kịch gầm gừ nhau làm như bom nguyên tử sắp sửa tiêu hủy thế giới đến nơi, cho các đàn em sợ hãi mà đi vào khuôn cho phải phép.

Và bây giờ xem ra 8 anh nhà giầu tự phong chức cho nhau trong những lần hội nghị kinh tế thượng đỉnh thế giới để chia chác kiểu mới: chỗ này phần mày, chỗ kia phần tao, liệu mà biết điều với nhau. Có chụp hình lưu niệm, bắt tay ríu rít. Một số nước Đông Nam Á “may mắn” được ở trong vòng đai kinh tế của trật tự mới Thái Bình Dương như Đại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba, Hồng Công, đang hãnh diện biết uống Coca, biết nhai kẹo cao su, và rủng rỉnh xu hào Mẽo. Việt Nam ta vốn tự hào là con của bố rồng bự là Lạc Long Quân và bà tổ là Long Nữ, vậy mà vẫn chửa thấy “trứng rồng lại nở ra rồng”. Bằng chứng là bây giờ người mình chỉ có một ước mơ được trở thành một con rồng nhỏ theo đuôi mấy con rồng Á Đông kia mà hy vọng vào được trật ự mới cũng không nổi.

Thì ra là trong tật tự mới, đồng đô la đang là phép bùa có thể khai mở mọi thứ mắt. Thấy đô la là mắt phải sáng lên. Trật tự mới mà cũng là tiêu chuẩn mới để đo mọi giá trị. Đồng đô la mới là đỉnh cao trí tuệ trong trật tự mới. Có đô la mới có quyền ăn nói, mới “mua tiên cũng được”. Vạn tuế đô la!

 

MÙI ĐU ĐỦ XANH

Nhưng rồi xã hội này đang phải trả giá. Những hồ hởi của nền văn minh vật chất đã đến hồi mệt mỏi. Hiến chế của Công Đồng Vatican II về Giáo Hội trong thế giới ngày nay đã nói tới vui mừng và hy vọng, nhưng đồng thời cũng nói trước về nỗi lo âu và khắc khoải. Con người đang đánh mất hạnh phúc trong tầm tay để chạy theo ảo ảnh, đang tự đuổi mình ra khỏi vườn địa đàng như Ađam và E-Và.

Nhiều nhà văn hóa đang tìm những lối thoát mới. Sau những thành công của phim Hội Phúc Lạc (The Joy Luck Club), Vườn Bí Mật (The Secret Garden), một phim khá nổi tiếng do đạo diễn người Việt là Trần Anh Hùng được chiếu tại các rạp Mỹ. Đó là phim Mùi Đu Đủ Xanh. Ong chủ nhà giàu trong phim là hình ảnh “ông cường quốc kinh tế trong trật tự mới”. Ong đang đánh mất hạnh phúc, không bao giờ biết cười. Có vợ con đầm ấm mà lại chỉ thích đi tìm niềm vui mãi đâu đâu. Mắt ông tối lại, sống cô độc, và chết trong chán chường.

Trái lại, Mùi là cô bé nhà nghèo phải đi ở đợ, thì có nụ cười lúc nào cũng tươi, mắt lúc nào cũng sáng lên long lanh. Cô bé thích thú hút hồn nhìn ngắm sức sống từ cành lá xanh cây đu đủ, từ động tác của con dế, từng giọt nắng mới, từng tiếng mưa rơi hay tiếng kêu lách tách trong chảo nấu đồ ăn. Một cách nào đó, bé Mùi đã được khai mở mắt thần, giống như thằng Bờm thấy được hạnh phúc đơn giản nơi nắm xôi với cái quật mo, chứ không phải ba bò chín trâu như “trật tự mới” của phú ông 

Thì ra trong máu người Việt vốn đã có chất khai mở con mắt thứ ba rồi đấy. Hạnh phúc đâu có quá phức tạp như thế giới loài người đang vất vả đi tìm. Bí quyết khai mở này được tìm thấy nhan nhản trong Phúc Am. Nước Trời, vườn địa đàng hạnh phúc thuôc về những ai có con mắt như trẻ thơ, con mắt thứ ba được khai mở để thấy được “nước Trời đang ở giữa”.

Và con người đang chờ một nền văn minh mới để bước vào thiên kỷ mới, một nền văn minh có thể khai mở mắt thần.

 

Thánh Đoàn Công Quí

làm chứng phép khai mở mắt thần

Đạo Công Giáo là đạo của Tin Mừng, chỉ cho thấy con đường tìm thấy niềm vui hạnh phúc trong cuộc sống. Nhưng trên thực tế người Công Giáo có tin gì thật mừng để tỏ lộ ra được qua nếp sống thường ngày hơn những người ngoài Công Giáo không?

Tử đạo theo nguyên nghĩa là làm chứng, là tỏ lộ một điều gì thật mừng. Một người vừa trúng số hay khám phá ra một kho tàng, thì nét mặt hân hoan. Một nghệ sĩ sáng tác thì dồn hết tâm huyết vào tác phẩm mình, ánh mắt rực sáng bất kể phải hy sinh thời giờ và sức lực. Những người này làm chứng bằng niềm vui thấy được cái mà người khác không thấy.

 

Mắt thần của Thánh Đoàn Công Quí

Mắt thần chính là con mắt đức Tin. Con mắt này được khai mở thì thấy được  Chúa đã sống lại, đang hiện ra và hiện diện trong cuộc sống mọi ngày cho đến tận thế. Và nơi nào có Chúa thì đó là nước Chúa, nơi đầy đủ mọi giàu sang hạnh phúc, vì có Chúa chẳng còn thiếu thốn chi. Vì Chúa là Đấng toàn năng, là nguồn mọi ơn phúc. Thầy đến để chúng con được sống, mà sống sung mãn (Gioan 10:10). Chỉ cần mở con mắt đức tin là thấy đã có hết mọi sự. Chúa Giêsu đã mở đầu tin mừng bằng lời công bố: Nước Trời đã ở gần bên. Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” 

Mẹ Maria đã được khai mở con mắt này, nên Mẹ luôn đầy ơn phúc. Mẹ luôn thấy “Chúa đã làm cho tôi muôn việc kỳ diệu”. Phúc cho Chị vì Chị đã tin.

Thánh Phêrô Đoàn Công Quí là một nhạc sĩ và là một thi sĩ. Ngài đúng là một nghệ sĩ theo nghĩa tích cực nhất. Ngài đã cảm nghiệm được tin mừng bằng con mắt đức tin, thấy được Chúa trong bổn phận thường ngày, thấy được con đường đạt hạnh phúc trong ngay cả những gian nan khốn khổ. Trước khi bị chém đầu tại pháp trường vùng Châu Đốc , Ngài đã nói với giáo dân bằng chính lời Chúa:

“Anh em hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước hết”.

Vì thấy được Chúa luôn hiện diện và an bài, Thánh Đoàn Công Quí đã nhận ra những bước chân của Chúa qua mọi chuyện xảy ra cho mình. Trong những lúc khó khăn, Ngài luôn cầu nguyện để biết ý Chúa muốn xếp đặt thế nào cho mình.

Thấy tay Chúa dẫn dắt xếp đặt

 Thánh Phêrô Đoàn Công Quí sinh năm 1826 tại họ Búng, tỉnh Bình Dương. Cha là Antôn Đoàn Công Miêng và mẹ là Anê Nguyễn Thị Thường. Ngay từ nhỏ cậu Quí đã muốn đi tu, nhưng cha mẹ thấy cậu thông minh và là con út nên giữ lại nhà mà chỉ cho người anh đi tu thôi. Nhưng ý Chúa lại khác. Sau một thời gian, người anh tu không được phải trở về, năm 1847 cha mẹ mới bằng lòng cho cậu Quí lúc đó đã 21 tuổi được vào chủng viện thánh Giuse ở Thị Nghè. Và một năm sau thì Thầy Quí được gửi đi du học tại đại chủng viện của Hội Thừa Sai Paris bên Penang, Mã Lai.

Sau 7 năm du học triết học và thần học, Thầy Quí trở về nước năm 1855, giữa lúc cuộc bắt đạo của vua Tự Đức đến lúc gay gắt cao độ nhất. Nhà vua ra sắc dụ phân tán mọi gia đình Công Giáo, phá hủy các nhà thờ và cơ sở tôn giáo, lùng bắt các linh mục. Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, Thầy Quí vẫn nhận lệnh Đức Cha đi giúp giữ vững tinh thần và dạy giáo lý tại các họ đạo. Thầy có biệt tài về ca nhạc, sáng tác nhiều bài hát đạo và thích hát những bài về Đức Mẹ. Về sau trong lớp cháu chắt của Ngài có cha Phaolô Đoàn Đạt cũng rất giỏi nhạc.

Và sau 3 năm giúp xứ, tháng 9 năm 1858 Đức Cha đã truyền chức linh mục cho Ngài tại nhà thờ Thủ Đầu Một, lúc đó Ngài được 32 tuổi. Sau một thời gian phục vụ tại các Họ Lái Thiêu, Gia Định và Kiến Hòa, Cha Quí được bổ nhiệm làm phó xứ Cái Mơn tỉnh Vĩnh Long. Chỉ sau ba tháng về Cái Mơn, Cha đã bị truy lùng. Quân quan đã bao vây dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn ngày 10 tháng 12 năm đó để khai thác chỗ các cha trốn ẩn. Nghe tin các nữ tu bị bắt, Cha Quí muốn nộp mình để lính tha cho các chị. Cha đã viết thư lãnh ý bề trên nơi cha chính Borelle Hòa: 

“Thưa cha, thật con đang ở giữa những nguy hiểm, nhưng Chúa đã giữ gìn chưa để con bị bắt, vì tội lỗi con còn nhiều chưa được phúc chịu khổ vì Chúa. Oi ngày xưa Chúa Cứu Thế đã phải chết treo trên Thánh Giá, con thật chưa xứng đáng. Con mong ước được đến nhà tù để khuyến khích các người xưng đức tin. Khi nào cha mới cho phép con làm điều đó?” 

Cha Chính Hòa đã không cho phép làm như thế, và Ngài đã tuân theo vì nhận ra ý Chúa qua ý bề trên. Từ đó Cha phải cải trang làm thường dân, đi thăm mục vụ và cử hành bí tích cách âm thầm.

Đức Tin làm được phép lạ: xiềng xích thành vòng đeo quí giá

Niềm tin mọc cánh chim Âu

Lòng đầy thần lực tuôn trào suối thiêng.

Đức tin có thể chuyển núi rời non. Con mắt đức tin của Ngài đã thấy được phúc lành nơi cái chết vì Chúa, và thấy mọi đau khổ được biến đổi trong cái nhìn mới như có lần Ngài đã bày tỏ:

“Chớ thì tôi không được diễm phúc chiến đấu và chết vì danh Chúa sao. Ước gì xích xiềng trở thành những vòng đeo quí giá, gông cùm thành vòng đeo tay. Hãy xem bao nhiêu bạn hữu đã được ngành lá chiến thắng, còn tôi như người lính canh bị quên bỏ. Oi lạy Chúa, xin ban phúc tử đạo cho con” 

Ngày 27 tháng 12 năm 1858, Cha Quí được lệnh đi làm cha sở họ Đầu Nước ở Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang, nơi có ông Lê Văn Phụng làm trùm trưởng đang hết mình dấn thân cho Hội Thánh qua cho họ đạo. Nhờ vị thế Họ Đầu Nước nằm trong một cù lao ngăn cách bằng những con sông lớn, nên dù trong thời kỳ bắt đạo khủng khiếp như vậy mà ông Lê Văn Phụng vẫn khôn khéo xếp đặt và tiếp tục xây nhà thờ, nhà xứ, nhà dòng, dạy giáo lý, đào hầm cho các linh mục trốn ẩn ngay trong nhà mình để lo thánh lễ và các bí tích cho giáo dân. Nhưng rồi những hoạt động này cũng khó thoát khỏi sự dòm ngó của các quan. Tin đồn có các linh mục trốn ẩn ở Cù Lao Giêng được nhiều người biết. Nghe vậy, cha chính Borelle Hòa liền nhắn Cha Quí tạm thời trốn đi khỏi xứ. Nhưng Cha Quí cảm thấy trách nhiệm chủ chiên và sự hiện diện của mình giữa đoàn chiên trong cơn giông bão thật là cần thiết. Tuy nhiên Cha vẫn lắng nghe ý Chúa qua ý bề trên, nên Ngài đã trả lời:

“Nếu bề trên muốn tôi trốn khỏi đây thì tôi xin Ngài viết cho tôi bài sai chính thức. Nếu không tôi sẽ ở lại xứ.”

Cha Borelle Hòa liền lãnh ý Đức Cha và sai đem hai chiếc thuyền đến đưa cha Quí về nhà chung để tránh cuộc lùng bắt có thể xảy ra.

Xin ban phúc tử đạo cho con

Nhưng ý Chúa đã xếp đặt khác. Lòng ước ao được chết vì Chúa đã được Ngài diễn tả qua những lời cầu nguyện. Ngài đã viết lời cầu xin này bằng dấu nhạc: “Lạy Chúa, xin ban phúc tử đạo cho con”.  Lời cầu nguyện nay được Chúa thực hiện. Vì chính những hoạt động  kéo dài mà vào ngày 7 tháng 1 năm 1859 quan đã sai 100 lính đến bao vây nhà ông Phụng. Hôm đó Cha Quí mới về nhận sở Cù Lao Giêng được đúng 10 ngày. Khi lính đến gần làng thì giáo hữu liến cấp báo cho gia đình ông Phụng. Nghe tin này, cha Pernot Định đã đề nghị với Cha Quí cùng đi trốn, nhưng cha Quí bình tĩnh trả lời:

“Tôi là người bản xứ chắc quan quân khó nhận ra, cha cứ đi trước, tôi ở lại thu dọn đồ lễ để khỏi gây phiền hà cho chủ nhà và giáo họ, rồi sẽ theo sau”.

Vậy là sau khi Cha Pernot Định vừa trốn khỏi nhà thì quan quân ập tới bắt ông Phụng phải nộp đạo trưởng ngoại quốc như đã được mật báo. Ong Phụng trả lời rằng không có đạo trưởng nguời Tây nào ở đây cả. Đang khi lính định tra tấn ông Phụng thì Cha Quí đứng ra nhận:

“Ở đây chỉ có tôi là đạo trưởng, ai muốn theo đạo tôi sẵn sàng chỉ dạy”.

Thế là lính liền trói Cha Quí, ông Phụng và 32 giáo hữu giải về Châu Đốc.

Trước mặt quan tỉnh Châu Đốc, Cha Quí một mực xưng mình là đạo trưởng:

“Làm sao tôi có thể bỏ đạo trong khi tôi dạy bảo người khác. Nếu quan thương thì tôi được nhờ, bằng quan muốn kết án thì tôi sẵn sàng, còn chối bỏ Thiên Chúa thì không bao giờ”.

 

Phép khai mở mắt thần

Trong 7 tháng bị giam trong tù, Cha Quí luôn sốt sắng cầu nguyện, ăn chay, đọc kinh lần chuỗi chung với các bổn đạo, và khích lệ các bạn tù và những người đến thăm. Vì chính nhờ cầu nguyện mà Thánh Đoàn Công Quí đã “luyện được phép” khai mở mắt thần, tức là mắt đức tin. Ngày nay ai đến thăm Hội Thừa Sai Paris đều để ý trong Phòng Các Vị Tử Đạo, một cuốn sách nguyện của Thánh Đoàn Công Quí được đặt trong một hộp kính bên cạnh nhiều di tích quí báu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

Đi tìm đường tu đức Việt, tìm vết chân trên con đường khai mở mắt thần, người ta lấy làm kinh ngạc trước một phương pháp khai mở mắt thần, xem ra quá đơn sơ và thông thường, nhưng lại là cốt lõi của mọi đường tu đức: đó là phép bí tích và kinh nguyện qua cuốn sách nguyện đã được in dấu đậm hằng ngày do bàn tay và hơi thở của Thánh Đoàn Công Quí. Cũng chính vì xác tín sức mạnh của bí tích và kinh nguyện, trước khi bị xử tử, Cha Thánh Đoàn Công Quí đã khuyên chú Tam con ông Phụng:

“Con hãy siêng năn đến tòa giải tội, đừng quên đọc kinh, cũng đừng phạm tội để linh hồn con được mạnh mẽ”. 

Thấy được tình Chúa qua tình mẹ

Trong những ngày tù khổ cực, Cha Quí luôn tưởng nhớ và cầu nguyện cho người mẹ đã già ở họ Búng. Có lần cha Quí đã gửi thư cho mẹ bằng một bài thơ rất cảm động diễn tả tình mẹ con thắm thiết, và cũng là dịp nói với mẹ về niềm trung thành và tin cậy nơi Chúa, con mắt đức tin thấy Chúa qua mọi thử thách.

 

Gửi về mẹ đôi dòng chữ thông tri

Kể từ ngày con vâng lệnh ra đi

Lòng lã chã lệ rơi buồn lụy

Ngỡ tới đây hành công biện sự

Một hai tháng về viếng từ thân

Ai ngờ rầy sớm tách lìa phân

Trời cùng đất không còn xum họp.

Hễ đạo làm tôi đua giữ lời răn dạy.

Cho nên con vâng lệnh chỉ sai

Đường xa xôi cách trở lại chi nài.

Miễn đặng tiếng vâng lời chịu lụy.

Khi con tới An Giang tạm nghỉ

Gặp chân trời gặp hội khoa thi

Nên con phải liều công ứng cử.

Ay là Thiên Chúa cứ sổ ghi

Người tuân theo tất được hoan hỉ

Dầu trăng trói gông cùm tù rạc

Chén ngục hình xiềng xích chi nề

Miễn vui lòng cam chịu một bề

Cho trọn đạo trung thần hiếu tử

Chí con dốc đền công ơn Chúa

Dạ con làm báo hiếu mẹ cha

Con xin mẹ chớ chút phiền hà

Một cam chịu cho danh Cha cả sáng.

 

Trúng Chúa

Cha Đoàn Công Quí đã cảm nhận được Tin Mừng và trúng Chúa như trúng độc đắc. Không có gì có thể lay chuyển so với vinh quang nước trời, vì “nước Trời giống như một kho tàng chôn giấu trong một thửa ruộng; có người khám phá ra liền vội vùi lại, rồi về bán tất cả mọi sự mình có mà mua lấy thuở tuộng ấy” (Mt 13:44).

Một hình ảnh thật cao đẹp: một người chủ chiên và một người trùm trưởng của Họ Đạo Cù Lao Giêng cùng hân hoan tiến ra pháp trường lãnh triều thiên tử đạo. Hôm đó là ngày ngày 31 tháng 7 năm 1859. Cha Quí cầm tượng Đức Mẹ trong tay, ngực đeo hài cốt tử đạo. Ngài nói với ông Lê Văn Phụng: “

Đây là giờ Thiên Chúa ấn định cho cuộc chiến đấu cuối cùng, chúng ta hãy can đảm chịu đựng vì Chúa”.

Đoàn lính cầm gươm dẫn hai vị anh hùng tử đạo ra pháp trường Chà Và. Và lời cuối cùng Ngài trối cho giáo dân trước khi bị chém đầu:

“Anh em hãy tìm nước Chúa trước hết, hãy tránh xa các tật xấu và hãy tập luyện nhân đức”.

hánh Quí tử đạo năm 33 tuổi, cùng tuổi với Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế. Xác Ngài về sau được đưa về táng tại Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang,  cùng với Thánh Lê Văn Phụng như lời trối. Cha sở và vị trùm trưởng cùng hoạt động xây dựng nước Chúa trong Họ Đạo, cùng bị bắt và tử đạo một ngày, và nay cùng được an táng bên nhau. Thật là một hình ảnh cảm động.

Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường

Xin mời thăm gia trang giới thiệu

Tư Liệu Xây Nhà Niềm Tin và Văn Hoá Việt: www.dunglac.net

 

VỀ MỤC LỤC
CĂN TÍNH LINH MỤC: NGƯỜI CỦA LỜI CHÚA VÀ NHIỆM TÍCH



LTS: Linh mục Giuse Phạm Ngọc Khuê sinh năm 1960 tại xứ Miếu Thuận, Giáo phận Phát Diệm. Cha được thụ phong linh mục ngày 25/4/1985. Cha đi du học tại Pháp từ năm 1995 đến 2003. Hiện là cha Giám học tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội, giảng dạy các môn Thần học tín lý. Đồng thời, cha còn là cha chính xứ Mưỡu Giáp, Giáo phận Phát Diệm. Cha là cha giáo chủ nhiệm năm cuối cùng lớp các tân linh mục chịu chức dịp vừa qua. Vì thế, cha được mời giảng thuyết trong Thánh lễ tạ ơn của các tân linh mục tại Đại Chủng viện ngày 14/12/2005. Sau đây là toàn văn bài giảng của Cha.

Kính thưa Cha Giám đốc Đại Chủng viện Laurensô Chu Văn Minh.

Kính thưa quí cha trong Ban Giám đốc và Ban giáo sư.

Kính thưa các tân linh mục.

Thưa toàn thể cộng đoàn.

Khách hành hương đến xứ Ars, ít ai không đến chiêm ngưỡng bức tượng đài cha thánh Gioan Maria Vianney ở cách nhà thờ giáo xứ chừng hơn 1 km. Nơi đặt tượng đài chính là nơi lần đầu tiên được bổ nhiệm đến Ars làm cha sở, vì không biết đường đến giáo xứ, nên Vianey đã phải hỏi thăm một cậu bé: "Con chỉ cho cha đường đến giáo xứ, cha sẽ chỉ cho con đường lên trời." Nhà điêu khắc rất thâm thúy khi tạc tượng thánh Gioan Vianney với em bé nhà quê: một tay nắm tay em, còn tay kia chỉ lên trời. Và câu nói thời danh kia được ghi khắc ngay chân tượng đài. Vianney suốt đời trung thành với phương châm hành động này: Luôn luôn nhận mình là người chỉ đường về trời cho dân Thiên Chúa.

Vậy linh mục là người hướng đạo, là người chỉ vẽ, hướng dẫn người khác về với Thiên Chúa. Trong những ngày đầu đời linh mục của các anh em vừa được chịu chức, mình nghĩ cách ý nghĩa nhất là cùng phác họa đôi nét về căn tính linh mục.

Người ta có thể gọi linh mục bằng nhiều danh hiệu đẹp đẽ, bóng bẩy, như bài hát: "Đuốc sáng tâm linh" của nhạc sĩ Trầm Hương: "Linh mục là chính Chúa trong kiếp người, là điểm tiếp nối đất trời, là tinh hoa của Giáo hội, là ngọn hải đăng thắp trên dương trần... " Nhưng tôi nghĩ, không cách diễn tả nào đẹp và đượm chất thần học cho bằng khi định nghĩa:

Linh mục là "người của Lời Thiên Chúa" bởi vì mục đích rao giảng Lời Chúa mà các ngài được gọi và được cất nhắc lên: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng..." (Lc 4,18-19). Tin Mừng ở đây là Tin Mừng cứu độ, là chính Thiên Chúa chứ không phải ai khác. Vì vậy, là người của Lời Chúa, linh mục phải có bổn phận tích lũy cho mình thật nhiều Chúa - như cách diễn tả của Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận: "Linh mục phải là người có Chúa Giêsu trên đầu, trên mắt, trên môi miệng, trên tay chân..."

Muốn có Chúa Giêsu, thì cách tốt nhất là phải năng gặp gỡ Ngài, đặt mình trong trường của Ngài - để suy gẫm và để sống Lời Ngài. Làm thế để Lời Ngài thấm vào máu thịt của ta, tạo nên sức sống và phong nhiêu trong cuộc sống đời thường.Có như thế mới có thể rao giảng Lời Chúa cách hữu hiệu. Bởi vậy, trong ngày chịu chức phó tế, mỗi tân chức đều được căn dặn rất cụ thể khi Giáo hội trao cho họ sách Kinh Thánh "Các con hãy nhận lấy sách Thánh, hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy."

Là thừa tác viên Lời Chúa, linh mục không rao giảng một lý thuyết về Chúa, mà làm chứng về ngài trong bổn phận của mình: "Chúng con hãy là những chứng nhân... ". Chứng nhân về một Thiên Chúa khiêm tốn, một Thiên Chúa là chân lý, một Thiên Chúa tự hủy đến tận diệt vì yêu thương. Người linh mục phải là người sẵn sàng chấp nhận thương tích vì Đức Ki-tô khi phải làm chứng cho công bình và chân lý (Như Gioan tiền Hô - chứng nhân của lòng trung thực và ông đã sẵn lòng chịu chết cho chân lí). Phải để cho Lời Chúa lớn lên còn tôi thì nhỏ lại. Nếu linh mục ý thức được điều này, ngài sẽ dành cho Lời Chúa chỗ đứng số một trong cuộc đời mình và khát khao đến héo hắt hao mòn cho việc rao giảng Lời Cứu Độ của Thiên Chúa đến nỗi có thế nói như thánh Phaolô: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng."

Linh mục là người của Nhiệm tích. Nhiệm tích ở đây không chỉ là quản lý và ban phát ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí tích mà linh mục cử hành; nhưng nhiệm tích theo mô hình nhập thể của Đức Ki-tô: Chúa Giêsu là bí tích cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhân tính của Ngài là dấu chỉ hữu hình của họat động thần linh nhằm sinh ơn cứu độ cho cả thế gian. Đó là Bí tích yêu thương của Thiên Chúa được thực hiện trong sự tự hủy đến tận cùng trên bàn thờ thập giá vì chúng ta: "Đức Giê-su Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nhất quyết phải duy trì, địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân..." (x.Pl 2,4-6).

Là người của Nhiệm tích, các linh mục không chỉ quảng đại, mau mắn, vui tươi trao ban Bí tích cho dân Chúa. Nhưng trên hết, cuộc đời linh mục còn phải trở thành Nhiệm tích nhờ đó Chúa cứu độ nhân loại qua con người linh mục. Chẳng vậy, mà trong ngày chịu chức linh mục, Giáo hội căn dặn mỗi tân chức:"Con hãy nhận lấy lễ vật của dân thánh. Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con thực hiện và dập đời sống con theo khuôn mẫu mầu nhiệm thập giá Đức Ki-tô".

Gương mẫu của chúng ta là Thầy Chí Thánh, bên cạnh Ngài là cha thánh Vianney- Bổn mạng các cha sở, đã thực sự trở thành người của Nhiệm tích khi hăng hái sống và ban Bí tích cho dân Thiên Chúa.

Trong ngày tạ ơn này, chúng ta cầu xin Thiên Chúa thánh hoá các linh mục, để các ngài biết đáp trả ơn Thiên Chúa trong bổn phận mục vụ và trong đời sống hiến dâng mỗi ngày. Để các ngài trở nên những mục tử như lòng Chúa mong ước, xứng đáng với căn tính linh mục: Là người của Lời Thiên Chúa và là người của Nhiệm tích cứu độ cho mọi người trong thế giới hôm nay. Amen.

Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê.        www.daichungvienhanoi.org

 

VỀ MỤC LỤC
ĐỐM LỬA VÀ ĐÁM CHÁY CỦA TÌNH YÊU !

 

LTS. Đứng trước thảm cảnh nạo phá thai tại Việt Nam thuộc vào hàng nhất nhì trên thế giới, đã đến lúc phải báo động khẩn cấp và đưa ra câu hỏi cho lương tâm mỗi người: Chúng ta phải làm gì trước thảm cảnh này?

GSVN hân hạnh giới thiệu hoạt động của một số Giáo sĩ tại Việt Nam, cùng với sự cộng tác của rất nhiều Giáo dân nhiệt thành..., rất đáng trân trọng.

 

Quý độc giả Ephata và Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

Vậy là chương trình học hỏi về Bảo Vệ Sự Sống ở DCCT Sài-gòn đã khởi động được tròn một tuần. Đã có liên tiếp 3 buổi trình bày về Giới Tính, Tính Dục và Tình Dục. Tạ Ơn Chúa, đến hôm nay thì chúng tôi mới tạm thở phào nhẹ nhõm. Nói thở phào là vì cũng hồi hộp lắm, biết mọi người có hưởng ứng không ? Khoảng 6 giờ rưỡi chiều, sao vắng hoe ! Đến kém mười lăm bảy giờ, thì thấy đã được mấy trăm người ngồi tản ra trong lòng Nhà Thờ. Vẫn cứ lo ngay ngáy ! Nhưng đúng bảy giờ tối thì cử tọa đầy kín, xấp xỉ một ngàn người ! Mà mừng quá đi, đa số lại là các bạn trẻ, con trai con gái đủ cả, là đối tượng trực tiếp chúng tôi muốn nhắm tới.

Lại nữa, tổ chức học hỏi ngay trong Nhà Thờ kể ra cũng bạo gan bạo phổi. Nội dung chắc chắn sẽ đề cập toàn những vấn đề âm dương nhạy cảm, và sẽ cần phải chiếu cả những hình ảnh hết sức tế nhị liên quan đến thân thể con người. Ban tổ chức xin cho căng một tấm màn trắng rất lớn ngang phía trước bàn thờ, vừa để làm écran chiếu hình ảnh, vừa để cách ly an toàn, tránh bị các cụ lớn tuổi kết tội... phạm sự thánh ! Dù vậy vẫn cứ sợ ! Nhỡ có vị Kinh Sư Thông Luật như ở thời Chúa Giê-su mà ngứa mắt ngứa miệng thì cũng gay go !

Chưa hết, người lãnh ấn tiên phong lại là một nữ bác sĩ ngành Tâm Lý Học và Tình Dục Học. Chị Lan Hải thâm niên hai chục năm, từng làm công việc tư vấn, điều trị, giảng dạy và thuyết trình khắp nơi, lại là Giáo Lý Viên xuất sắc trong các khóa Hôn Nhân “Hai Nên Một” của Nhà Thờ Chính Tòa Sài-gòn. Ấy thế mà buổi đầu tiên, chị đã phát hoảng trước đám đông, may mà cái tính cách duyên dáng tự tin, cái khoa ăn nói văn hoa bóng bảy của người Hà Nội chính cống đã giúp chị dần dần vượt qua để trở thành một diễn giả xuất sắc, được mọi người chăm chú lắng nghe, đặt câu hỏi liên tiếp bằng phiếu và còn quyến luyến mãi sau đó ngoài sân Nhà Thờ.

Bác sĩ Lan Hải mừng vì thành công một thì bản thân chúng tôi mừng gấp hai gấp ba. Bởi như vậy là chúng tôi cũng đã khởi động và đi được một chặng đường ngắn trong việc tổ chức các khóa học hỏi. Mặt trận Bảo Vệ Sự Sống thật mênh mông tỏa rộng, cứ đụng đến lãnh vực nào đó lại thấy nảy sinh vấn nạn ở một hai lãnh vực khác nữa. Có lúc thấy ngộp, thấy choáng váng, đâm ra hoang mang, có cám dỗ bỏ cuộc vì thấy sao chuyện mình làm cứ như muối bỏ biển, dã tràng se cát !

Nhiều anh chị em, thậm chí có cha ngay trong Dòng tỏ ra hoài nghi, buông một lời phê bình nặng và đau lắm, rằng: “Các anh Bảo Vệ Sự Sống mà lại chỉ lo chuyện đằng ngọn thế này thì phá thai nó vẫn cứ tiếp tục... phá thai. Vô ích ! Phải lo đằng gốc ấy chứ, phải mở các lớp dạy cho người ta biết phương pháp Tự Quan Sát thì mới giảm được nguy cơ phá thai !” Lại có người bảo phải dạy cho người ta Kinh Thánh và Giáo Huấn của Hội Thánh để người ta mến Chúa yêu người, để người ta trân trọng đời sống gia đình thì mới mong chấm dứt tệ nạn phá thai. Một nhóm khác nữa thôi thúc chúng tôi phải mở ngay các lớp giáo dục Giới Tính, hướng dẫn hành vi và ứng xử cho các bạn trẻ, nhất là mấy cô mấy chú vị thành niên....

Khổ quá, chúng tôi biết rất rõ tất cả những nội dung học hỏi ấy là chính đáng, là cần thiết. Thế nhưng, xét cho cùng, những người còn biết tìm đến với các lớp Giáo Lý Hôn Nhân, đến với các khóa Kinh Thánh và cầu nguyện, đến với các nhóm trẻ sinh hoạt ở Nhà Thờ thì có lẽ khó mà rơi vào hiểm họa nạo phá thai. Thế còn cả một cái mảng khổng lồ những người không Công Giáo thì lấy đâu cơ hội để ta gặp gỡ, giảng giải cho họ hiểu vấn đề ? Trong khi đó, hàng ngày hàng giờ vẫn có hàng trăm hàng ngàn người tìm đến các bệnh viện để phá thai, không Công Giáo rất đông, mà Công Giáo cũng không ít. Vậy giữa lúc ta còn đang loay hoay tranh cãi xem phải làm những gì, phải làm như thế nào thì đã có hàng triệu thai nhi bị giết mỗi năm trên toàn đất nước Việt Nam.

Nghĩ đến thế thì giật mình, nhói đau quặn thắt trong lòng, phải xắn tay áo vào cuộc ngay thôi. Cái gì cũng cần thiết nhưng cái gì quá bức bách cần kíp thì phải làm ngay tức khắc. Rồi dần dần, từng mặt một sẽ được triển khai nối tiếp nhau làm nên một mặt trận chung Bảo Vệ Sự Sống. Xin điểm danh những mặt chính:

1. Một ngôi nhà Tình Thương mang tên Giê-ra-đô nằm ở ngoại thành, được mở ra để đón về những cô gái chưa hề được chuẩn bị làm mẹ, lại bị người yêu, bị cha mẹ, bị dư luận độc mồm độc miệng của xã hội bủa vây lườm nguýt và xâu xé. Ngôi nhà chật chội, cố cơi ra bên hông, thông ra bên dưới, nới lên phía trên thì cũng chỉ tối đa nuôi được 15 cặp mẹ-con. Gần như tuần nào cũng có ít là một ca đi sanh nên bây giờ xem lại sổ sách khai sinh mới biết hai anh chị Giáo Dân cộng tác với chúng tôi đã nhận làm cha làm mẹ được 56 cháu bé rồi. Ngày 31 tháng 5 năm nay, Thánh Lễ mừng Bổn Mạng Đức Mẹ Đi Viếng lần thứ hai chắc chắn sẽ đông vui lắm đây !

2. Một nhóm những anh chị em chia nhau tình nguyện vào các bệnh viện để ngồi cầu nguyện và thuyết phục người ta bỏ ý định phá thai. Mặt này tính đến hôm nay mới làm được tròn bốn tháng. Chỉ là mấy chục con người bình thường, được “vũ trang” bởi sách Tân Ước và chuỗi Mai Khôi, ra thẳng “tiền tuyến” với một nhiệm vụ là không ngừng cầu nguyện. Và họ đã cứu được ngót một trăm bà mẹ, cũng là ngót một trăm cháu bé thoát khỏi bi kịch phá thai. Thật ra, con số được “cứu vớt” này chẳng thấm thía gì so với con số thực tế đau xót. Thôi, vẫn cứ phải làm, còn nước còn tát, sinh mạng con người chứ có phải... con gà con vịt trong nạn dịch cúm gia cầm đâu !

3. Một toán khoảng 5, 6 anh chị em chuyên âm thầm đi thu gom các thai nhi bị giết tại các bệnh viện, chiều chiều mang về cho Trung Tâm Mục Vụ chúng tôi, ít thì 50, nhiều thì 200, tất cả bọc trong túi ni-lông đen, đặt dưới chân tượng Ma-ri-a, Mẹ các Thai Nhi. Rồi xẩm tối, một cô bé sinh viên đến cất hết vào ba-lô, chạy Honda về một cộng đoàn ở ngoại thành, giao lại cho một thầy Trợ Sĩ DCCT. Hậu sự của các cháu mai này sẽ là một cái lăng mang tên Anh Hài được xây bởi những viên gạch bên trong là tro cốt của hàng vạn cháu bé.

4. Công việc truyền thông thì chúng tôi chỉ có trang báo Ephata và mục Bảo Vệ Sự Sống trên website của TTMV. Các ngòi bút gần xa cộng tác, trong Dòng và ngoài Dòng góp gió, trong 256 số báo ít cũng phải được 50 số chuyên đề Bảo Vệ Sự Sống được gửi đi như những lá thư điện tử, gợi suy tư, mời cầu nguyện và đẩy tới hành động... Lại phải kể đến các tờ bươm bướm của các ân nhân làm giúp và cũng truyền tay phổ biến giúp, đến nay không biết số lượng là bao nhiêu bản mà sao ra Bắc, vào Nam, lên miền Đông, xuống miền Tây chỗ nào cũng gặp. Tất cả đã khơi lên thật nhiều những tâm tình sám hối, nhận thức và nỗ lực Bảo Vệ Sự Sống nơi người đọc.

5. Và nay thì cuối cùng, chúng tôi cũng cố gắng làm được cả công việc Giáo Dục, nghĩa là bên cạnh việc các cha các thầy chia nhau thành từng tốp đi giảng, đi nói chuyện về Bảo Vệ Sự Sống thì đồng thời, các khóa học hỏi cũng được mở ra. Nhắm đến quần chúng đám đông để gây ý thức theo chiều rộng thì mở luôn trong Nhà Thờ, còn nếu dành riêng cho từng lứa tuổi, từng đối tượng để hướng dẫn và huấn luyện theo chiều sâu và chiều xa thì sẽ mở thành các lớp 30 – 60 người. Các bác sĩ, các nhà chuyên môn xã hội và tâm lý có tài và có lòng đã nhận lời cộng tác với chúng tôi không chỉ một khóa và cũng không chỉ dừng lại tại Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài-gòn, mà còn sẵn sàng lan ra, chuyền đi, nhất là đến các vùng có đông các bạn nghèo Di Dân Xa Quê.

Nhìn chung toàn cảnh “mặt trận” Bảo Vệ Sự Sống thì thấy... hết hồn ! Trời ơi, quá nhiều, quá căng, cái gì cũng làm thế này không khéo lại ôm đồm bao biện, rồi chẳng ra đâu vào đâu ! Sợ nhất là... đánh trống bỏ dùi !

Biết thế, anh em chúng tôi càng phải khiêm tốn nhìn nhận đây là công trình của Thiên Chúa. Mà “Thiên Chúa là Tình Yêu” như tên và nội dung của Thông Điệp mới nhất Đức Thánh Cha Biển Đức XVI vừa ban hành dịp Lễ Noel 2005 vừa qua. Mà đã là Tình Yêu thì sức thiêng sẽ mạnh mẽ ghê lắm, dễ gì mà Thiên Chúa Ngài để cho chúng ta phải kiệt quệ quỵ ngã hoặc buông xuôi bỏ cuộc. Chỉ cần chúng ta tự nguyện xin được làm “khí cụ Bình An” của Chúa thôi, là đủ rồi !

Biết thế, anh em chúng tôi càng phải nhìn nhận đây là công trình của toàn Hội Thánh nữa cơ. Đâu chỉ có mấy ông DCCT, còn đó các anh chị em Tu Sĩ các Dòng Tu, các Tu Hội, các Hội Tông Đồ, còn đó bao nhiêu anh em Linh Mục Triều ở các Giáo Phận, còn đó cả một Hội Đồng Giám Mục Việt Nam... Chuyện Bảo Vệ Sự Sống đang được chính Chúa Thánh Thần nhen nhóm lên đây đó như những đốm lửa leo loét lập lòe. Đấy, thoạt đầu là những sáng kiến kiểu như Nghĩa Trang của cha Giải ở Huế, của cha Đông ở Pleiku, của DCCT ở Bình Thạnh, của anh Tống Phước Phúc ở Nha Trang, của các thầy Dòng Bệnh Viện ở Biên Hòa, và chắc chắn còn nhiều nơi khác nữa mà chúng ta chưa biết tông tích đấy thôi. Cũng vậy, đây đó đã nhô lên những ngôi nhà mở, những mái ấm mang tên Mẫu Đơn, Thanh Tâm, Giê-ra-đô, Mai Linh...

Rồi sẽ đến lúc bùng lên... Đám Cháy của Tình Yêu ! Chúng tôi tin như thế. Chúng ta hãy xác tín như thế !

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT   

VỀ MỤC LỤC
Cười- Mười Thang Thuốc Bổ
 

Câu chuyện Thầy Lang

Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC

Cười- Mười Thang Thuốc Bổ

Laughter is the most inexpensive and most effective wonder drug”.

Bertrand Russel

Ta thường nghe nói: “Cười bằng mười thang thuốc bổ ”, “Cười là dược phẩm tuyệt hảo”, hoặc “Cười mang vui cho người, cho ta”..

Những ý kiến về sự ích lợi của nụ cười với sức khỏe này không phải là khám phá mới lạ, nhưng khoa học thực nghiệm ngày nay đã chứng minh các nhận xét đó là đúng.

Cụ Nguyễn Công Trứ của ta chẳng lấy nụ cười để giải cơn sầu:

Ngồi buồn mà trách ông Xanh,

Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười;

Kiếp sau xin chớ làm người,

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.

Vâng, làm cây thông ngạo nghễ vươn cao lên mà reo cười chẳng thú lắm sao.

Cụ Nguyễn Khuyến thì:

“ Được thua hơn kém lưng hồ rượu,

Hay dở khen chê, một trận cười”

để xóa bỏ mọi tỵ hiềm trách móc khen chê.

Cụ Phan Bội Châu thì lấy nụ cười để xóa bỏ mọi dị biệt, oán thù giữa con người với con người:

“ Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Nhưng nhân ái hơn vẫn là nụ cười của mẹ hiền:

“Ví mà tôi đổi thời gian được,

Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười - Trần Trung Ðạo

Friedrich Nietzche triết lý “ Trên thế gian, con người chịu nhiều đau đớn quá ghê gớm khiến họ bắt buộc phải sáng tạo ra tiếng cười”

Nhà nhân chủng học Francois Rabelais thì cho “Cười là đặc tính của con người”; triết gia Pháp Henri Louis Bergson thêm “ Biết cười và biết chọc cười là hai đặc tính của con người và là một hiện tượng tích cực của xã hội”

Nhà văn tiền phong Nguyễn Văn Vĩnh thì: “Việt nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì mà dở cũng hì; phải cũng hì, quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang”

Người Nhật mỗi buổi sáng đều chào đón bình minh với lời cầu nguyện và vỗ tay, như để khơi động mở màn cho một ngày mới. Chỉ với vỗ tay là tiếng gọi thể xác bừng tỉnh, làm ta thấy vui vẻ, sung sướng.

Vậy Cười là gì nhỉ?

Theo Tự Điển Việt Nam của Nguyễn Như Ý, cười là “ tỏ rõ sự vui vẻ, thích thú bằng sự cử động môi hoặc miệng và có thể phát ra thành tiếng”.

Các tác giả Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ định nghĩa cười là “nhích môi, há miệng, nhe răng, phát ra tiếng hay không để tỏ sự vui mừng hay một ý tứ gì”.

Một tác giả khác giải thích “cười là một hành động tạo ra những âm thanh và cử động của mặt và thân thể, biểu thị một cách sôi nổi một sự thích thú, vui vẻ hoặc khinh bỉ”.

Cười là một động tác bẩm sinh, xuất hiện ở bất cứ em bé nào sanh ra được dăm tuần lễ, dù các em chẳng may có bị tật nguyền khiếm khuyết thính thị. Bé mới sanh 10 ngày tới sáu tháng chưa biết nhột mà cảm thấy khó chịu khi ta cù vào chân. Sau tuổi đó, khi cù thì bé lại lăn ra ngủ vì không biết cách đối phó. Mãi tới bốn tuổi bé mới biết nhột và cười khi ta cù gãi vào chân.

Nói chung, để được gọi là cười, phải có sự phối hợp của ba yếu tố: hơi thở thoát khỏi miệng từng hồi đứt đoạn; tiếng động do không khí chạm vào thanh quản và sự co giựt của bắp thịt trên mặt. Các bắp thịt này rất nhỏ, ngắn nhưng tương ứng với nhau: một cơ chuyển động thì các cơ khác cũng phụ họa theo.

Cười bắt đầu ở cửa miệng với sự nhếch mép làm chuyển động các bắp thịt ở miệng, mũi, má, quanh mắt. Chuyển động lan xuống khí quản, dây thanh âm, các bắp thịt ở bụng, hoành cách mô, phổi. Hơi thở thoát ra rồn rập và nếu kéo dài có thể đưa tới hụt hơi, ngộp thở.

Những kiều cười

Trên mặt có 15 cặp bắp thịt tham dự vào việc cười, trong khi đó thì có tới 72 bắp thịt cần được vận dụng để nhăn nhó, khó chịu. Y lý và võ thuật Đông phương cho là có cả trăm huyệt cười trên cơ thể, với ba huyệt chính: một nằm ở gan bàn chân, huyệt đại tiếu ở nách và huyệt kinh môn ở lưng.

Tùy theo các bắp thịt co mà ta có những nụ cười khác nhau:

nụ cười nửa miệng, cười miếng chi, chúm chím;

cười duyên, cười tình, cười con mắt có đuôi;

cười rúc rích với nhau như mấy bé gái nói vụng với nhau về mấy cậu trai cùng trường;

cười khì, cười hề hề thành thật vì vui không hậu ý, vô thưởng vô phạt;

cười khoái trá, cười giòn tạo không khí vui vẻ, sung sướng;

cười hóm hỉnh ranh mãnh nhìn vào mắt kẻ đối thoại như muốn tỏ rằng mình đã biết cái bí ẩn, bề trái của họ;

cười xòa, cười huề bỏ qua mọi căng thẳng cho xuôi công việc;

cười ngoại giao, cầu tài nịnh, cười lỏn lẻn, dã lã để được việc cho mình;

cười mát chế riễu, cười khẩy coi thường, cười nhạt không bằng lòng, cười quỷ quyệt ngọt ngào nhưng đầy âm mưu xấu;

cười tới chẩy nước mắt, vãi đái và đau cả bụng;

Lịch sử kim cổ đã có nhiều nụ cười đáng nhắc nhở như tiếng cười ô trọc, ngạo mạn củaVõ Tắc Thiên; cười khêu gợi của Dương Quý Phi; nụ cười thầm kín, huyền bí khi ẩn khi hiện trên bức tranh của thiếu phụ Joconde; nụ cười hứa hẹn của Điêu Thuyền khi chuốc rượu Lã Bố; cười vô tư, tự do của bầy trẻ vừa tan lớp học; cười đáng giá ngàn vàng của Bao Tự; cái cười khoái trá, liên tục đến chết của Trình Giảo Kim trước tình đời đen bạc tráo trở; cười hà hà, khanh khách, the thé rồi ằng ặc của Bành Trưởng Lão khi bị Hoàng Dung thôi miên; cười thỏa mãn của Ngưu Cao khi nhẩy xuống sông bắt sống được tướng địch Ngột Duật.. Hoặc

Miệng cười bừng nở hàm răng lựu;

Sáng cả trời xanh mấy dặm trường, qua thơ Huy Cận.

 

Và công dụng của Cười ra sao?

Đã có nhiều quan sát, nghiên cứu thực nghiệm về công dụng của nụ cười với sức khỏe.

a- Theo bác sĩ thần kinh tâm trí William Fry, chuyên gia về hài hước và sức khỏe, thì đã có những chứng minh khoa học là sự cười đùa thích thú kích thích đa số các hệ thống sinh lý trong cơ thể. Một cơn cười rung bụng làm tim đập mau hơn, máu lưu thông dễ dàng hơn, các bắp thịt vận động co duỗi tốt hơn. Nó giống như một sự vận động và sau trận cười ta cảm thấy thư giãn thoải mái. Những nụ cười  như vậy ngăn cơn suy tim bằng cách làm tâm thần thoải mái, nhẹ nhàng, tan biến buồn rầu, tức giận, giảm ứ đọng máu lưu thông tránh tai biến não, làm giảm khó chịu vì nan bệnh ung thư..

Trên Tạp san Y Học Hoa Kỳ JAMA ngày 12-7- 1984, bác sĩ Donald Black cho hay cơn cười vui tái tạo sự thăng bằng, kích thích máu lưu thông và tạo ra cảm giác thoải mái.

Tại Đại Hội lần thứ 73 của hiệp Hội Tim Hoa Kỳ tại thành phố New Orleans, Hoa Kỳ, ngày 15 tháng 11 năm 2000, bác sĩ chuyên khoa Tim Mạch Michael Miller trình bầy là người bị bệnh tim cười 40% ít hơn so với người cùng lứa tuổi không có bệnh tim. Họ thường ít nhận ra hoàn cảnh đáng cười hoặc là lợi dụng hoàn cảnh đó để thoát ra khỏi một khó chịu. Ngoài việc cười ít hơn , họ còn dễ giận hờn dù hoàn cảnh có tích cực, đáng vui. Theo bác sĩ Miller, cho tới bây giờ, để giảm nguy cơ lên cơn suy tim, ta thường giảm chất béo, vận động cơ thể, không hút thuốc lá. Nhưng trong tương lai, có lẽ lời khuyên để có một trái tim lành mạnh, sẽ gồm có vận động cơ thể, ăn uống đúng cách, giảm chất béo, không hút thuốc lá kèm theo một hoạt động hữu ích khác là cười đùa vui vẻ nhiều lần trong ngày.

Người ta chưa biết tại sao cười ngừa được bệnh tim nhưng chắc chắn là sự căng thẳng tâm thần có liên hệ tới tổn thương viêm thành mạch máu rồi chất béo đóng trên động mạch vành, đưa tới lên cơn đau tim. Nên nhớ một trong những nguy cơ của cơn suy tim là căng thẳng, lo âu.. Khi tươi cười thì ta cảm thấy tự tin, tích cực và kiểm soát được sự hoảng sợ và sẽ phục hồi mau hơn

b- Cười tăng khả năng chống nhiễm trùng của cơ thể. Theo Hội Tiếu Trị Liệu American Association for Therapeutic Humor, cười tăng sản xuất T-cell chống lại vi khuẩn, tăng sức đề kháng, tăng hóa chất tốt trong cơ thể.

c- Nhà báo Norman Cousins bị bệnh viêm cứng khớp đốt xương sống. Ông ta thấy mỗi ngày khi cười rung bụng mươi phút thì giảm đau và ngủ thoải mái được hai giờ mà không cần dùng thuốc men gì. Theo Cousins, sự cười có tác dụng tốt vào tâm trí ông ta do đó giảm khó khăn bệnh hoạn. Cười làm thư giãn bắp thịt bằng cách tăng hóa chất catecholamine, hóa chất này lại kích thích tiết ra một chất giảm đau tự nhiên của cơ thể là endorphins.

Nhiều bệnh viện đã áp dụng trị liệu bằng Cười như một thứ thuốc làm giảm đau đớn, lo âu ở bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Hiện nay có trên 1300 Câu Lạc Bộ Cười Laughter Club trên thế giới do bác sĩ Kataria bên Ấn Ðộ khởi xướng thành lập. Ta nhớ rằng có nhiều cơn đau cũng do cảm xúc mà ra và nếu ta ngâm mình trong sầu bi, tự trách thì cơn đau tăng, mà qua sự vui cười hớn hở thì đau cũng giảm lần.

d- Theo Joe Goodman, Giám Đốc Chương Trình Hài Hước Humor Project, thì một số kích thích tố tiết ra do căng thẳng đều bị cơn cười vui làm tan biến. Trong đời sống hàng ngày, ta không thể tránh được những phút căng thẳng, nhưng một cơn cười phá đều làm nó hết đi. Ta có thể tự hài hước mà không mất tiền mua, không cần gia nhập câu lạc bộ sức khỏe hoặc đi khám bác sĩ.. Ông ta đề nghị chúng ta lập một thư viện với nhiều phim, sách hài hước khác nhau. Khi thấy dấu hiệu buồn phiền thì vào coi một đoạn phim, đọc một đoạn văn vui, để rồi cười phá lên.

e- Ngoài ra, Cười làm hô hấp tốt hơn và giảm thán khí trong máu; tăng cường hệ miễn dịch, có nhiều huyết cầu tố chống lại nhiễm hô hấp; cung cấp nhiều dưỡng khí cho não bộ, khiến ta suy nghĩ tốt hơn; giảm huyết áp, giảm u sầu; làm bắp thịt mạnh hơn. Có người đã nói rằng nếu ta thực hiện từ 100 tới 200 cơn cười mỗi ngày thì sẽ mang lại ích lợi cho cơ thể tương đương với mươi phút chạy bộ.

g- Về tâm lý, Freud coi cười là môn thuốc tẩy xổ ưu phiền; Darwin coi cười là đối nghịch với khóc mà khóc là dấu hiệu của phiền não, đau đớn.

Từ lâu, các nhà y học đã nhận thấy rằng những bệnh nhân yêu đời, tự tin và hy vọng đáp ứng thuận tiện hơn với điều trị và mau lành hơn người lúc nào cũng u sầu, than thân, nản lòng.

Voltaire có ý kiến tương tự: “Có người cười như lên cơn động kinh; người ta cũng nói có kẻ chết vì cười; điều này tôi không tin lắm nhưng chắc chắn là có nhiều người chết vì sầu thảm”.  

Tác giả Nguyễn Gia Thiều cũng đã viết:

“ Giết nhau chẳng cái lưu cầu,

Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa”.

Cười cũng làm ta tự tin, yêu đời hơn, tăng giao hảo với mọi người. Nơi làm việc mà có sự hòa thuận, vui vẻ thì nhân viên làm việc với nhiều hiệu năng, giảm căng thẳng, tăng sản xuất và tăng tình cảm đẹp giữa người này với người khác.

Ngoài ra, Cười là một xúc động lành mạnh dễ lan truyền, chứ không nguy hiểm như lây lan cúm gia cầm, cúm người. Đây là một hoạt động giải trí tự nhiên, không tốn tiền, không có tác dụng xấu, thích hợp cho mọi người, mọi tuổi. Chỉ một nụ cười nhỏ nhưng niềm vui có thể lan truyền khắp trái đất. Cho nên khi thấy một nụ cười, hãy tiếp nhận, đừng để nó lạc lõng và hãy tạo ra một dịch cười, khiến mọi người cùng nhiễm cái vui. Cũng may là rất ít người miễn nhiễm, dị ứng với cười, dù là đến từ ai.

Kết luận

Nói về ích lợi của Cười đối với cơ thể thì nhiều vô tận.

Xin kết luận với câu nói của Steve Bhearman:

“Hài hước có sức mạnh chữa trị rất lớn đối với xúc động. Ta không thể vừa tức giận, sợ hãi, đau đớn khi ta đang ôm bụng cười phá lên”

Và của Đức Đạt Lai Lạt Ma:

“Nếu ta duy trì một tình cảm thân ái và đầy tình thương thì tự nhiên cửa lòng ta mở rộng. Qua cánh cửa đó, ta sẽ đối thoại dễ dàng với mọi người. Ta sẽ thấy rằng họ cũng như ta và từ đó ta sẽ sẵn sàng liên hệ với họ và tạo ra một tình bạn tốt, sẽ bớt đi sự e dè, không còn cảm giác sợ hãi, nghi ngờ, bất an”.

Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC Texas –Hoa Kỳ.
 

VỀ MỤC LỤC
Từ TSUNAMI đến KATRINA và ...

 

Cơn bão Tsunami đến trùng hợp với buổi chiều nàng và tôi có cuộc cãi vã. Buồn thật, nhưng con người mà, chén bát để trong chạn còn va chạm huống chi vợ chồng, huống chi đàn ông và đàn bà. Lạy Chúa tôi… 

Hôm nay ‘Mặt Trận Miền Viễn Tây’ trong nhà tôi có phần lắng dịu. Nhìn lên màn ảnh TV với những cảnh nhà cửa trôi dạt và xác người ngổn ngang, tôi gợi chuyện như một ‘diễn tiến hòa bình’:

-    Hơn 100 ngàn người chết. Ghê quá. Thật không hiểu được.

Như vẫn còn hậm hực, nàng đưa ngay một lời cảnh báo đối phương:

-         Chúa gởi hình phạt đến mà vẫn còn chưa biết thưong yêu nhau.

Lời cảnh báo của nàng còn ‘vững vàng’ hơn cả giáo huấn của Giáo Hoàng John Paul II, ‘nhanh’ hơn cả sách vở của Hans Kung, và ‘hùng biện’ hơn cả những thuyết giảng của Bill Graham.

“Chưa biết yêu thương nhau”. Tôi biết chắc nàng không nói về những người Acer và người Indonesia hay người Thái theo Phật Giáo và người Thái theo Hồi Giáo đâu. Tôi biết nàng ám chỉ ai rồi, nhưng nếu ‘tranh cãi’ về ‘tình yêu’ thì ‘không vui’ nên tôi im lặng.

Mấy hôm sau thì trên web đã có những lý giải về nguyên do cơn sóng thần. Nó là kết quả của một cơn động đất ngoài khơi Ấn Độ Dương mà sức mạnh bằng hàng chục ngàn quả bom nguyên tử ở Hirosima năm 1945.

Ai cũng đồng ý về nguyên nhân vật lý này. Nhưng tại sao lại có động đất? Tại vì quả đất chuyển mình và mặt quả đất chỉ mong manh như vỏ trứng mà thôi. Nhưng tại sao lại có những ‘bất toàn/thiếu sót’ như vậy? Nói khác là tại sao lại có những tai họa làm chết nhiều sinh linh đến thê? Câu hỏi vượt khỏi tầm vật lý để nằm ở mức độ siêu hình và thiêng liêng rồi.

Phật Giáo thì cho đó là cái VÔ THƯỜNG của cuộc đời, là NGHIỆP BÁO của nhân sinh.

Người thì cho là hình phạt của Thượng Đế(nàng nhà tôi chác chắn thuộc hệ phái này 100%), nhưng Thượng Đế phạt ai? Và do tội lỗi của ai?

Bảo rằng đây là Ý Chúa cũng không đúng vì Chúa nhân từ vô cùng Ngài đâu giết người tội lỗi, nhất là trong số những nạn nhân có rất nhiều người vô tội cơ mà.

Bảo đây không phải Ý Chúa cũng không đúng vì Chúa quyền năng vô cùng. Chẳng có gì Ngài không biết và chẳng có gì xảy ra ngoài quyền năng của Ngài được.

Có một bài báo cắt nghĩa hiện tượng này như là việc quân Hêrôđê giết các con trẻ ở Do Thái khi Chúa Giêsu sinh ra. Tác giả này cho rằng Chúa muốn những đứa trẻ này ‘được chết sớm’ vì Ngài thấy trước rằng khi lớn lên chúng sẽ cực khổ hoặc có thể ‘mất linh hồn’. Tôi không đồng ý với lối lý luận này vì nếu vậy thì Ngài đừng cho chúng sinh ra thì hơn. Hơn nữa sự chết của chúng tự nó cũng đã là những đau khổ lớn cho các gia đình và dân tộc Do Thái lúc bấy giờ rồi. Rồi nhìn ra đời tôi cũng thấy biết bao người đau khổ về thể xác và tinh thần mà Chúa vẫn để cho họ sống ‘lai rai’ với bệnh ung thư đau đớn hoặc tai biến mạch máu não nằm trơ như khúc gỗ trong nhà thương hay trong những viện dưỡng lão cơ mà.

Trước thảm cảnh này (ngay sau ngày Lễ Giáng Sinh), tôi chỉ dám viết trên emails gởi cho các bạn: “Lạy Chúa, con chẳng hiểu được những sự kiện này vì đường lối và tư tưởng của Ngài cao vời như trời với đất. Chỉ xin cho con vững niềm tin nơi Ngài thôi”.

Rồi cơn bão Tsunami cũng qua đi với hơn 150 ngàn người chết. Họ là những người Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan, và những du khách từ các nước.

Hơn 150 ngàn người chết( bằng 3 lần con số cư dân của thành phố Fullerton, California). Nhiều thật đấy, nhưng

-         So với số người chết vì trận động đất ở Băc Trung Hoa 10 năm trước thì con số này mới chỉ bằng ¼

-         So với 2 triệu người Campuchia bị Pol Pot thảm sát thì con số này chưa thấm thía.

-         So với 6 triệu người Do Thái bị Đức Quốc Xã tiêu diệt thì con số này lại càng nhỏ hơn.

-         So với số người Việt Nam chết trong cuộc chiến  Nam Bắc hơn 20 năm thì con số này cũng nhỏ thôi.

-         So với số người Việt Nam chết trên đường vượt biên thì con số này cũng kém xa. 

Chết do thiên tai thì khủng khiếp, nhưng nhanh chóng. Còn chết do chiến tranh, do ‘nhân tai’ thì đáng sợ và bi thảm hơn nhiều.

Lạy Chúa, Ngài ở đâu khi cơn sóng thần ập đến? Ngài bận làm gì khi bọn hải tặc vô nhân tính hãm hiếp những người trinh nữ Việt Nam rồi vất xác xuống biển Thái Lan và Mã Lai 

Bình tâm lại, tôi vẫn thấy mình luẩn quẩn về huyền nhiệm “D’ou vient le mal?”(Sự dữ từ đau đến?). Biết rằng huyền nhiệm(mystery) thì khác với vấn đề(problem) nên chẳng ai giải nghĩa được, nhưng tôi cũng cứ quanh quẩn vì nó có liên hệ đến niềm tin và sự cứu độ của tôi.

Bình tâm lại, tôi thấy những nạn nhân của cơn sóng thần Tsunami cũng phần nào giống những vị nữ tu bị bức tử đang lúc làm việc thiện nguyên ở Iraq. Cũng chẳng mấy khác những cha dòng tên bị giết lúc sang truyền giáo ở Nam Mỹ. Cũng chẳng khác với cái chết của thánh Lê Văn Phụng và thánh Nguyễn Công Quí khi muốn giữ đức tin. Cũng chẳng khác những người mang những bệnh tật bẩm sinh. Tsunami thật là phi lý với cái nhìn của một con người ‘bình-thường-không-niềm-tin’.

Chính những người Do Thái cũng đã thắc mắc và hỏi Chúa Giêsu: “Tại vì tội của nó hay tội của bố mẹ, ông nội bà ngoại của nó mà tay này phải tật nguyền khổ cực thế kia?”.

Tôi chưa viết xong những dòng suy tư này vào ngày 10 tháng 1, năm 2005 thì cơn bão Katrina đã vừa ập xuống vùng New Orleans, Louisiana. Không làm chết nhiều người như Tsunami, nhưng Katrina là thiên tai gây thiệt hại nhất trong lịch sủ nước Mỹ.

Dưới một khía cạnh nào đó thì Katrina cũng giống Tsunami mà thôi. Tôi không dám (tạm gọi là) suy tư nữa, chỉ tin rằng “Chúa có chương trình riêng cho mổi người Chúa đã sinh ra.”

Nhưng tôi muốn ghi nhận có một số người nhìn những Thiên Tai…giống tôi:

Bà bề trên dòng DaMinh( hay Mến Thánh Giá) đang chăm sóc những người tị nạn từ New Orleans ở Houston khi trả lời phỏng vấn với Đài BBC London: “Tôi coi đó như một mầu nhiệm, mà đã là mầu nhiệm rồi thì có tìm hiểu mấy cũng chả hiểu được. Tôi chỉ ‘chắp tay’ cầu xin Chúa cho những nạn nhân bão lụt và ‘đưa tay’ làm được gì cho họ thì làm thôi. 

Một vị mục sư khác tôi không nhớ tên, nhưng nhớ lời của ông trên đài phát thanh: “ Bảo rằng đây là hình phạt của Chúa thì đó là một điều ‘tốt nhất’ mà những kẻ vô thần, những kẻ ghét đạo, chống đạo đang tìm kiếm để phá đạo đấy.”

Nói về sự giúp đỡ nhứng nạn nhân thiên tai Katrina, tôi cũng không quên lời của Đúc Cha Mai Thanh Lương: “In these disasters, the prayer is not enough. The prayer should be on the top of charity”.

Chắc tôi cũng phải thêm vào những dòng này từ báo Abba số 246 nữa:

Một số người nói gì về thảm kịch 11 tháng 9 năm 2001? Họ nói gì đến trận sóng thần Tsunami năm ngoái? Họ nói gì về trận bão kinh hoàng Katrina đang xảy ra ở miền Nam nước Mỹ? Họ đang và sẽ nói gì về Thiên Chúa khi có thảm kịch xảy ra trong cuộc đời? Họ có nói rằng Chúa đánh phạt những người tội lỗi không?

Bạn có bao giờ nghe người ta nói “Thiên Chúa giống như một người cha đôi khi dùng hình phạt để răn dạy con cái”? Và, bạn có đồng ý với ý kiến này không?

Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Abba, nghĩa là Cha, là Bố. Thiên Chúa và người Cha đó của Đức Giêsu đã làm gì cho nhân loại? Đức Giêsu khẳng định “Ai thấy tôi là thấy Cha tôi, Đấng đã sai tôi.” (Ga 12:45). Chúng ta thấy gì nơi Đức Giêsu? Có bao giờ Đức Giêsu làm hại ai chưa, ngay cả đối với người tội lỗi? Có bao giờ Người gây ra đau khổ cho ai không? Bạn có thể tìm được một bằng chứng nào trong Tin Mừng về việc Chúa Giêsu phạt tội nhân không? Còn tôi thì không. Ngược lại, tôi chỉ có thể tìm được vô số những bằng chứng về sự tha thứ, lòng nhân hậu, và tình thương yêu của Người dành cho những người tội lỗi, trong đó có bản thân tôi.

Chúa Giêsu ôm lấy tất cả mọi cuộc đời, đặc biệt là các tội nhân: “Những người khỏe mạnh thì không cần thầy thuốc, nhưng những người đau yếu thì cần. Hãy đi và học cho biết điều này: Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần lễ tế. Tôi đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng để kêu gọi những người tội lỗi.” (Mt 9:12-13). Chúa Giêsu chỉ muốn họ được sống dồi dào. Vậy thì làm sao Thiên Chúa, người Cha vô cùng nhân từ của Đức Giêsu, lại có thể liên quan đến những thảm cảnh cuộc đời như vụ khủng bố 11 tháng 9, cơn sóng thần Tsunami, trận bão Katrina, bệnh tật, đánh bom tự sát, v.v… Không, Thiên Chúa không thể làm những chuyện như thế, không phải vì Người không đủ sức làm, nhưng vì Người là Tình Yêu (1Ga 4:16). Những thảm cảnh này là do các nguyên nhân khác.

Chúng ta không thể phóng chiếu hình ảnh mình có về người cha trần thế lên Đấng là Thiên Chúa và là Cha mà Đức Giêsu nói đến. Thiên Chúa và Người Cha đó không phải là cha mẹ trần thế của chúng ta. Cách duy nhất để chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của Abba – người Cha – mà Đức Giêsu nói đến là đào sâu tương quan của Đức Giêsu và Thiên Chúa, chứ không phải bằng cách thay đổi danh xưng “cha” bằng một danh xưng khác vì mọi danh xưng con người đều giới hạn và khiếm khuyết về Thiên Chúa.

Chúng ta hãy cùng nhớ rằng Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu, chính là người Cha đầy lòng yêu thương của hết mọi người.

Cảm ơn báo Abba.

Các nhà địa chất học cũng đang tiên đoán là trong thập niên tới sẽ có trận động đất lớn ở Nam hoặc Bắc California mà số thiệt hại nhân mạng có thể cả chục ngàn và thiệt hại vật chất có thể gấp đôi, gấp ba trân bão Katrina. Tôi chưa sẵn sàng cho cơn động đất ấy, nhưng nếu nó xảy đến thì tôi cũng chẳng nghĩ đó là hình phạt của Chúa. Chẳng lẽ cả tiểu bang California không có một người thánh hay sao. Chỉ cầu xin Chúa: “Nếu Ngài cất con về thì cho con về nhà Ngài.”

 Joseph Vũ San Dimas

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************